Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Du An, một bước ngoài khung từ những liên tưởng vụn





HOÀNG CHIẾN THẮNG


Có trường liên tưởng làm người ta bực mình, bên cạnh đó lại có rất nhiều liên tưởng, dẫu vụn lại khiến người ta giật mình... văn chương mà để người đọc nảy sinh tâm trạng đó thì đúng thật hiếm lắm. Xưa nay, tôi vốn rất ghét phải khen một ai đó, chẳng phải ích kỷ, hẹp hòi, song quả thực, để khen đãi bôi cho có thì quá bằng “khen cho nó chết” (chữ dùng của nhà văn Nguyễn Khải) vậy nào có khác gì ghét bỏ thù hằn mà làm hại nhau vậy.
       
Một bước cũng là đi
Với Du An, có lẽ là trường hợp không nhiều khiến tôi đặt bút, cũng bởi một phần vì tôi không phải nhà phê bình chuyên nghiệp, có chăng thì cũng chỉ dừng ở mức cảm tính hay tài tử... song, với Trước dấu ba chấm (...), Nhà Xuất bản Văn học ấn hành năm 2013 của Du An cùng một số tác phẩm khác mà tôi đã tiếp cận thì lại chẳng thể đừng cho đặng.
Phải nói ngay rằng, điều khiến tôi chú ý chính bởi cái sự khác, đúng vậy, khác lạ về tứ đã đành mà khác lạ bởi những liên tưởng vụn thì quả hiếm gặp, còn cả khác lạ về tính dục nữa. Thơ Du An rất thông minh, nhiều câu thơ khiến người đọc bật cười và đó là cái sự khác với những gì mặc định kiểu như, nói thịt thì nghĩ ngay là thịt lợn chứ chẳng thể nghĩ thịt dê, thịt vịt, thịt chó hay thịt bò ... và tôi tạm gán cho sự mặc định ấy là “cái khung của sự thói thường” để trên cơ sở đó tìm đến sự rung ngân của người viết, và thử lý giải về một người thơ.
        Sẽ có người bác bỏ những nhận định trên, có sao đâu, bởi đó cũng chỉ là nhận định mang tính chủ quan của cá nhân tôi. Và, quan trọng hơn cả, không phải tôi đang làm cái việc cố thuyết phục một ai đó đồng thuận với những gì tôi đang viết mà chính ở chỗ tôi đang nói lên từ những gì tôi thấy, tôi cảm, có chút ngỡ ngàng, có sự nể phục và quý mến cũng bởi, như tôi đã nói trước đó, tôi không phải nhà phê bình chuyên nghiệp nên tôi không bị lý trí lấn át trong những cảm xúc về thơ mà để sự mẫn cảm cùng trực giác dẫn dụ.
        Có người bảo, rằng thì anh là người miền núi, hay chí ít anh sinh sống ở miền núi thì anh phải có cái chất, cái giọng của núi, có cái nhìn xanh sắc lá, có nhịp đập hòa với cỏ cây, muông thú, thác ghềnh... thì khi đó cái anh viết ra mới bản địa, mới đúng ngữ cảnh, kiểu như đang ăn thịt chó thì không được nghĩ đó là thịt cừu chứ đằng này lại đành hanh, ngoa ngoắt, sao thế được... chẳng giống tính cách người miền núi chút nào. Chính nếp nghĩ đó, cái lề đó, cái thói thường phải thế... đó mới tạo ra trăm bè như một, trầm thì như nhau mà cao thì cũng hệt.
        Một bước ngoài khung, chính là sự vượt thoát ra khỏi “cái khung của sự thói thường” mà làm một Du An hiện sinh. Thoát ra được cái thói thường là vứt bỏ được cái tôi khái niệm để Du An là Du An chứ không phải là Du A, Du B, Du C hay Du X, Y cờ rách nào khác! Nghĩ thì dễ mà làm thì khó lắm lắm. Bởi khi đó anh sẽ bị cho là bất thường, bị chiếu bởi hàng trăm đôi mắt khác và bị quay lưng, nhếch mép kiểu “văn chương gì nó”. Ai cũng hiểu, người viết không làm nên tác phẩm, chính đối tượng tiếp nhận mới làm nên tác phẩm và đưa anh ta trở thành nhà văn, song khi lựa chọn theo hướng khác biệt, dị thường thì rõ ràng đối tượng tiếp nhận của Du An đã bị thu hẹp và khu trú trong một phạm vi nhất định. Vậy điều gì khiến Du An quyết tâm là Du An, phải chăng bởi quan niệm, có một độc giả thực sự đúng nghĩa kiểu Bá Nha - Chung Tử Kỳ thời Xuân Thu Chiến Quốc thì ắt phải hơn bạt ngàn những con người “thói thường”? Vậy thì rõ rồi, dù sao đã nhấc chân, nửa bước, một bước hay một chuyến cũng là đi. Và tôi thấy Du An đã đi như vậy trên hành trình thơ của mình.

Khước từ “cái khung của sự thói thường”
Khảo sát thơ Du An chúng ta sẽ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi điều gì làm nên sự khác biệt? Từ những bài thơ được đăng tải trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tuần báo Văn nghệ, và các diễn đàn văn học khác và ngay trong tập thơ mới nhất Trước dấu ba chấm (...) (đối tượng khảo sát chủ yếu  của chúng tôi trong bài viết này); điều mà chúng ta nhận thấy rõ nét và có hệ thống hơn cả chính là những liên tưởng vụn trong thơ anh, tôi gọi đó là những liên tưởng vụn, bởi nó vụn theo đúng nghĩa, giống như lối phân mảnh trong nghệ thuật viết truyện ngắn, song liên tưởng vụn ở đây còn vụn hơn nhiều. Nếu lạm dụng trào lưu, thì có thể coi đó là sự đập tan, vụn vỡ kiểu giải trung tâm của Hậu hiện đại, hay có gì đó của Đa Đa, nhặt ghép ngẫu nhiên nên thật vụn, vụn lắm, thậm chí chẳng ăn nhập gì nhưng nó vẫn là thơ thậm chí là rất thơ... thì liên tưởng vụn tưởng ngẫu nhiên ấy lại đã là chủ ý và chính điều này đã làm nên sự vượt thoát khỏi “cái khung của sự thói thường”.
        45 bài thơ thì ý tứ, những liên tưởng đều vụn, cảm giác giống như con nước bập bềnh với vạn ngàn cánh hoa bung vỡ nổi nênh, vụn đấy, chi tiết là vậy nhưng tổng thể thì đó là một thảm hoa, đúng vậy, một thảm mềm mại lung linh, chính cái thảm mềm mắt mềm môi, chính cái lãng mạn, trác tuyệt ấy lại được làm nên bởi những mảnh vụn, nghĩ vậy, thấy vậy thì thật tài lắm lắm.
        Giở ngẫu nhiên, bất kì bài thơ nào trong Trước dấu ba chấm (...) đều có thể thấy được những bài thơ, khổ thơ với những liên tưởng vụn, thậm chí vụn trong từng câu, kể mà cũng lạ, ví như Bụi chó đẻ bên đường: Một mùa mưa xanh mướt/ một mùa mưa bị ong đốt/ nở hoa ra để chấm hết/ một năm xanh/ Hở ra một chiêc dép/ một khoảng tròn tròn như mông con gái/một quả còn/ cách một tầm tay với/ Hở ra một con dao quắm/ trồi lên một đồng tiền xu/ cả tiếng nói/... thóc hôm nay năm nhăm cơ/ Thầy cô giáo đi vào/ đoàn gánh củi đi ra/ mấy bà hàng sáo đứng dậy bỏ gốc mít/ ngô thóc còn tít đằng xa/ Con ngựa hí không chịu/ cái đồng hồ chân đi/… thêm một vật nữa làm chi.../ Năm nay chưa đứa trẻ nào đốt/ cuối chạp rồi/ bụi chó đẻ có tự nẩy mầm được/ mùa xuân lội suối sắp vào tới nơi. Chỉ là một bụi chó đẻ với vòng đời theo quan sát và kinh nghiệm: bật mầm, xanh non, nở hoa, tàn lụi, đốt, tiếp tục bắt đầu cho một chu kì mới mà Du An cứ đi nói tận đẩu đâu, tưởng như chẳng liên can gì, ấy vậy mà có, ấy vậy mà nên, vòng đời thì ngắn, còn vòng người liệu có được bao năm? Rồi cũng thở dài, rồi cũng tất bật và nhoắng nhoằng, thời gian “chân đi” thêm làm chi cái thứ đếm chỉ làm thêm xót ruột, xót lòng, thì đã đành ai chẳng sinh ra để chết, có hay không để rồi cũng hết để mà lại luân hồi, tái sinh; hay như: Anh với em như tia chớp/ xoẹt nhau trên mái tóc/ không ai cười, không ai khóc/… chẳng còn đống củi mà đi đậy/ lâu rồi không xem ti vi dự báo thời tiết (Khi mùa mưa đến). Nội trong một khổ thơ, đã thấy có những liên tưởng vụn, lướt trôi, lia nhanh như thể ống kính, một thủ pháp trong điện ảnh. Đang lãng mạn, man man bỗng dưng ụp cái nhảy ngay sang liên tưởng thực, cụ thể đến ngạc nhiên, đến bất ngờ, giống như chiếc bánh đa nhúng nước, phần nhúng thì mềm mà phần khô thì giòn gẫy. Chớp đấy là chớp nào? Chớp từ ánh mắt hay từ trái tim hận thù oán thán để nỗi xoẹt nhau cái nhìn lên tóc lạnh tanh không cười không khóc; đang thế, ấy mà người viết đã lại nghĩ ngay đến cơn mưa thực rồi liên tưởng như một phản xạ “chẳng còn đống củi mà đi đậy” rồi nhảy sang kiểu tự trách mình “lâu không xem ti vi dự báo thời tiết” như thể lên đồng, đang nói nhảm vậy. Song giải mã những liên tưởng vụn này lại thấy có sự gắn kết. Và thực tế, vụn ấy chỉ là đánh lừa người đọc bằng cái vỏ ngôn từ, bởi thẳm sâu, sau bóng chữ, liên tưởng có vụn đâu, vẫn một mạch thống nhất đấy chứ! Này nhé, “chẳng còn đống củi mà đậy” phải đâu nghĩ chớp thì mưa mà đó hẳn phải là chớp của tắt nguội lửa lòng, là sự tức giận hay đại loại thế. Và bởi đó nên chớp ấy ắt phải nảy sinh từ cái sự “chẳng còn đống củi mà đậy”, đó là khi đã tan vỡ, đã không còn gì phải tiếc nuối, gìn giữ, chẳng còn gì luyến lưu. Cơ mà lạ, thật lạ, ấy mà cũng nói được, ấy mà cũng khiến người đọc phải căng óc mà đoán mò. Biết đâu Du An lại chẳng đang xem dự báo thời tiết mà liên tưởng quáng quàng vậy! Ai dám chắc là không? Hay như đây: Thèm như đứa trẻ thấy người lớn tài thật/ lại sợ người lớn 1+1 mà cũng hỏi bằng bao nhiêu/ vô lý có lý chung một cái chăn/ đắp vào thì nóng, bỏ ra thì rét... Và nữa: Có lúc tự hỏi nếu không có tiếng rao Hà Nội sẽ ra sao?/ đêm ngủ mê mỗi người mỗi phòng ai đến gỡ tay ra khỏi ngực... Cũng vẫn là kiểu liên tưởng vụn, song lại là một chuỗi đồng nhất, ấy rằng, nếu không có tiếng rao, Hà Nội mỗi người mỗi phòng, nhẹ vía chìm vào cơn mê, ai đến lay dậy bây giờ, và tiếng rao là ân nhân, tiếng rao như thánh thần, là thuốc tiên kéo người ta trở về thực tại, vùng thoát khỏi cơn mê những tưởng sẽ cứ vậy rồi thế kéo ta đi.
        Thơ Du An lạ, bảo kiệm lời thì cũng phải mà dài thì cũng đúng, và thậm chí nhiều những câu đơn, không hề phức tạp nhưng ngữ nghĩa và ngôn từ được lựa chọn cộng với những liên tưởng vụn lại làm nên sự phức tạp và đó là sự phức tạp của khả năng tư duy ngôn ngữ, thì đó là một sự khác rồi, kiếm tìm làm gì mỏi mắt, ở đấy chứ đâu!
Bảo khác nhưng có hay đâu, thế thì khác để làm gì, thì đây, câu thơ hay đây: Tại sao em lại mua ngoài chợ/ một nghìn một bó mưa hay: Pú Khớ không hỏi ai... đến từ đâu.../ bảo uống rượu ăn cơm đi ngủ/ bảo yêu nhau thì ngồi với lửa... lúc lên miên man ngược suối/ lúc về dốc đuổi bàn chân/ em phanh gấp bằng đôi mắt/ anh còn lên đây nữa không và: con ôm mẹ mười ngày, mỗi ngày mẹ đi nghìn bước/ con chẳng thấy mẹ ở đâu mà chạy đằng trước. Rồi thì: Ếm về rồi, lạ đã thành quen/ có muốn ở Mường Nhà mãi không?/ cầm hộ em cái váy... mà bài thơ hay thì cũng nào có hiếm, đây: Lên Pú Khớ, Trước dấu ba châm (...), Nằm ôm mẹ, khi mùa mưa đến... thế thì gia tài thơ Du An nào có phải đâu ít thơ hay. Còn nhiều yếu tố khác khiến Du An làm nên sự khác biệt, và đều xuất điểm từ những liên tưởng vụn mà ra. Và sự rung ngân của người thơ này cũng rất khác lạ. Cùng lúc rung ngân hướng đến mọi chiều, mọi trạng huống, chi tiết, và anh  đã đưa cả vào thơ mới thành nên những liên tưởng vụn.

Và tính dục trong thơ Du An
Tính dục/ yếu tố sex trong thơ Du An cũng xuất hiện với tần xuất kha khá, và có lẽ hình ảnh thường thấy là cây chuối, lá chuối, khe nước... rất cổ điển song qua liên tưởng, qua những nhảy cóc của tư duy hay sự đập tan trong những liên tưởng vụn lại kết thành những cái khác lạ. Và như đã nói trên, cái vụn của Du An là cái vụn của sự rung ngân, kiểu như phàm đã thính tất nghe nhiều tạp âm, và lọc lại trong những tạp âm đó thì sẽ có sự hẫng, thiếu liên kết, rất vụn. Song ưu điểm, những thanh âm đã được chắt lọc rất đa dạng; có sự thanh, trong và gợi, mỏng mảnh, âm dồn, ùng oàng hay ri ri đều có cả. Ấy mới làm nên cái đa dạng trong mớ hỗn độn, và đó cũng lý giải cho cái sự vì sao liên tưởng vụn mà vẫn thấy hay, thấy đẹp thấy là thơ với nhiều lớp lang, thậm chí với ngay cả những câu đơn vẫn có sự phức hợp. Từ đặc điểm này, tính dục trong thơ Du An cũng không ngoại lệ, bởi đó là anh, là Du An hiện sinh, nên tính dục cũng được nói theo cách rất Du An. Người đọc không khó để tìm thấy những hình ảnh như này: Những cây chuối rừng mang trong mình khe suối/ chảy ngược vào đôi môi khát cháy/ những cây chuối tham gia giao thông/ cuộc hành quyết không ngoái lại/ bao nhiêu đùi con gái/ gào thét đứt phanh... những thân chuối trắng ban ngày không chịu bóc bẹ/ buổi trưa ấy hai mươi mốt tuổi/ buổi trưa này liệu có mai sau (Chuối rừng); hay như: Suối trôi dọc, em đi ngang/ và như thế chín bản trên về, mười núi theo khe ra may mắn/ sung sướng hợp lưu chật chội/ lách nhau đi va chạm lần lượt... mong suối chiều ngang dài hơn chiều dài/ nhưng suối sâu đến đâu váy em kéo đến đấy (Qua suối); và: những quả cà chua bị bắt quả tang nằm bên nhau hồng hào (Chợ đêm). Đôi khi lại là: Khát/ rễ bỏ qua cọc đi tìm trâu và bài ATM rõ nét hơn cả: Khe khẽ đút sự thật vào êm êm cuối tháng/ ATM nhớ ta vẫn thủ tục nghi ngờ... cuộc thanh toán nhấp nháy/ lập trình rồi cứ thế dắt nhau đi... se sắt vuông vuông/ òa ập đường chuyển khoản/ lúc em còn ngủ/ có nụ hôn bị ướt/ ATM anh vẫn màu vàng năm trước... nếu để kể ra thì còn nhiều, nhiều lắm... nhưng thế thì cũng đã là đủ. Còn những câu, những khổ khiến người đọc bật cười mà đau mà ngấm kiểu như Nhớ con lợn: Chục năm rồi máng cất đi kỉ niệm/ hôm nay con bị điểm 2/ bài văn tả con lợn có sừng, kêu zaza như siêu nhân /chục năm rồi lại nhớ con lợn. Hay như: không gặp được rái cá/ câu chuyện tiếp tục râm ran, tanh tanh/ nó bằng con bê, mồm ngoạm con cá trắm bằng bắp đùi...?/ ai cũng thấy và tranh nhau nói/ Rái cá không lên tiếng/ cứ mập mờ, xa xa/ chợt thương con mèo, con chó/ vừa meo meo gâu gâu đã ăn một cái đập (Rái cá).
Và nói gì đi nữa tôi vẫn giữ quan điểm, thơ Du An lạ với những liên tưởng vụn và hay. Dưng, bỗng nhớ lời của GS. Hoàng Ngọc Hiến dành cho Nguyễn Huy Thiệp khi nhà văn này mới xuất hiện trên văn đàn rằng: tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió. Còn Du An, chắc anh cũng biết con đường thơ của mình chông gai thế nào!
H.C.T


Read More..

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013

Mường Phăng thích thú

(Thay lời anh bạn lần đầu đến Mường Phăng)


Tôi đến Điện Biên đã vài lần, nhưng chỉ là đi công tác, thời gian ngắn nên dù muốn cũng chỉ thăm thú chớp nhoáng những điểm di tích lịch sử ở trung tâm thành phố Điện Biên Phủ. Còn những điểm khác, nhất là Mường Phăng, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ thì vẫn còn trong mơ.
Lần này, nhân đợt nghỉ 30/4, 1/5; tôi cùng anh bạn quyết định lên Điện Biên, đích đến cụ thể luôn là Mường Phăng. Từ thành phố Điện Biên Phủ, qua những cánh rừng mát mắt, những tràn ruộng bậc thang đường nét; những người Thái, Khơ Mú hồn nhiên… khiến cái máu nghệ sỹ của tôi được dịp trỗi dậy. Trước mắt; tôi sẽ có nhiều ảnh đẹp, hấp dẫn để về khoe với vợ con, bạn bè; và, sau này biết đâu những cốt, tứ của truyện, thơ sẽ tự nhiên nảy nở.
Đây rồi, đã đến “Rừng Đại tướng”! Rừng già, cổ thụ cao ngất, nắng sớm vừa nãy ngoài đường có vẻ hơi gắt mà vào đây chỉ còn ánh sáng mờ mờ nhẹ nhẹ. Dễ chịu vô cùng. Không khí mát mẻ bao trùm, có phần hơi lành lạnh như thời tiết ôn đới. Chúng tôi chầm chậm bước, có điều gì sâu lắng thiêng liêng trên tán lá tán lá rì rào, rừng cây dẫn dắt.
Đây, khu trung tâm Sở chỉ huy chiến dịch khiến cái tên Điện Biên Phủ trở thành một động từ quốc tế. Lán tranh, ghế cây rừng, hầm xuyên núi… thật đúng là chân đất mà làm nên lịch sử. Chúng tôi im lặng, ngẫm nghĩ, suy tưởng về những điều sách báo, tivi trong nước, quốc tế đã nói. Giờ tận mắt, tận làn da thấy những lán trại đơn sơ, vật dụng nhỏ bé của bộ đội ta… mới thấm thía tầm vóc to lớn của chiến thắng. “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, cụm từ này, tôi nghe đã nhiều, thậm chí có lúc có khi như cảm giác sáo ngữ. Thì đây, tán rừng không nói, những âm thanh không lời cho một câu trả lời về tương quan lực lượng, về ý chí của cả dân tộc…
Tháng 5 là tháng Điện Biên Phủ. Ngoài phố các điểm di tích người đi quấn áo chen chân. Trong Mường Phăng đây, cũng nhộn nhịp núi rừng. Lối đi nhỏ nhỏ, người hàng một; đoàn lên, đoàn xuống nghiêng nghiêng tránh nhau; nụ cười, cả cái bắt tay như từ lâu thân thiết. Bạn tôi kể, trưa 1/5/2004, Mường Phăng bị tắc đường hơn 30 phút. Lúc đó, tôi không tin bởi non cùng rừng tận chứ đâu phải Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… Nay thì tôi mong, bao nhiêu du khách đang lên xuống nói cười kia sẽ một lúc tụ lại như niềm vui chung một bó hoa.
Sẽ là rất thiếu nếu tôi kể về Mường Phăng mà toàn có núi rừng di tích. Những con người nơi đây thật chất phác, hấp dẫn. Đó là một cô gái Thái, hai chúng tôi gặp lúc trở về. Tại bìa rừng, chỗ trạm gác Sở chỉ huy, em chào chúng tôi và mời mua đồng bạc, mật ong. Trước đó, chúng tôi đã nghe những lời này nhiều… nào thuốc uống vào hết đau lưng, nào rượu ngâm chồng uống vợ khen, quả “sung sướng” ăn vào cả nhà vui… nên nghe em nói có phần không vào lắm. Nhưng phần vì mệt bởi cả chặng đường leo dốc, phần vì sắp phải xa Mường Phăng không biết bao giờ trở lại… nên có cuộc chuyện trò giữa chủ và khách. Em bảo nhà em ngay đây thôi, chồng làm ao cá, thỉnh thoảng đi bắt ong rừng; hai đứa con đi nhà trẻ, mẫu giáo; em dệt vải, thêu khăn, nắng ráo rỗi rãi thì lên hầm bán hàng. Em bảo mua cho em đồng bạc về đánh cảm, mật ong rừng Mường Phăng về uống tốt cho ăn uống, đường ruột. Em mời chúng tôi về nhà chơi với chồng, xem ao... và quả đồi hơn 2ha sau nhà định trồng trám hoặc cây ăn quả gì đó… Giọng nói, cách nói, từ ngữ, cử chỉ chả có gì là lơi lả chèo kéo; cứ hồn nhiên như nói chuyện với người bản mình khiến hai chúng tôi bị thuyết phục. Tôi mua hai đồng bạc và nói: “Anh chả cần biết đồng bạc này thật hay giả. Nhưng anh thích em hồn nhiên chân thật. Anh mua giúp, để kỷ niệm”. Em có vẻ ngại ngùng khi nhận tiền. Đã trưa trưa, anh bạn tôi mời em xuống “phố Mường Phăng” ăn cơm. Tôi không kịp “kéo áo” anh… Sao lại mời rơi, xã giao như thế! Tôi nghĩ chưa hết thì em đã bảo, em gọi cả chồng em nữa nhé. Em gọi điện, tiếng Thái, chúng tôi chỉ nghe bằng nét mặt, giọng nói. Rồi em, quay sang nói - Chồng em bảo em về nhà đã, rồi cùng đi.  Chúng tôi lấy số máy của nhau, hẹn tại quán; và giao ước, không được “lừa nhau” đâu nhá.
Tại quán… ở trung tâm xã Mường Phăng. Bàn ăn, các món đã xong xuôi; tôi bảo đợi, anh bạn bảo “thôi cứ chén đi, đi đường mời rơi mời rụng ai người ta đến”. Bạn tôi nói vậy, nhưng vẫn chiều tôi, cùng đợi. Mất mươi phút, chúng tôi ngắm măng đắng, cá nướng… thì vợ chồng em đến. Em rực rỡ - áo cóm, cúc bướm bạc, váy thướt tha (khác hẳn lúc nãy). Hai chúng tôi cảm động, ra tận đường bắt tay, mời vào.
Em rót rượu tự nhiên như ở nhà mình và giới thiệu chồng. Tôi giới thiệu mình và bạn. Nâng chén, cụng nhau “au hảnh”… câu chuyện cứ lên dần. Tôi và anh bạn thay nhau hỏi; về gia cảnh, về phong tục người Thái trên này… Anh chồng kể, hai đứa cùng hoàn cảnh nhà nghèo, không được học lên, hạnh phúc đến nhau là tự tay làm thôi. Em bảo, các anh biết Mường Phăng, biết vợ chồng em rồi, thì bao giờ lên nữa, “lấy” cả vợ con cùng thăm nhà, biết nhau tất cả.
Câu chuyện mỗi lúc càng đậm đà, chén rượu càng thêm ngọt ngào, bay bổng. Chúng tôi mời em hát, chồng em cũng động viên em cứ hát cho các bác nghe. Em nhìn trước nhìn sau như xấu hổ… rồi khe khẽ, rồi cao dần. Bài hát tiếng Thái như nói, như kể; tôi không hiểu lời nhưng thấy như có ruộng, có nương, nhà sàn, áo cóm thướt tha… Hai chúng tôi còn đang bay trong giai điệu thì em ngừng và “dịch”… Bài hát bảo, các anh đến thăm Mường Phăng, biết hầm Đại tướng; chúng em rất vui, chào đón; có gì không vừa ý các anh thì các anh đừng mang về nhà; các anh lên một lần thì lên nhiều lần nữa, bảo nhiều người, bạn bè, vợ con cùng lên…
Chợt em rót rượu phẳng đều các chén và trùng giọng nói: “Đồng bạc em bán cho các anh lúc nãy là không thật. Đồng thật thì đắt lắm, ít người mua”. Tôi sững người, một lúc mới nói: “… Nhưng tình cảm của vợ chồng em là thật”. Câu chuyện hết gợn ngay bởi tôi nói thẳng lại: “Bọn anh biết, nhưng vẫn mua vì thấy các em chân thật, vất vả. Thôi coi nó như một kỷ niệm, bọn anh chia sẻ với em”.
Câu chuyện có chậm chậm lên dốc một tí, rồi lại lướt lướt đầy men rượu, men người hồn hậu. Anh bạn tôi có điện thoại, tôi tủm tỉm cười khi anh khoe khéo, kiểu lợn cưới áo mới - Anh đang ở Mường Phăng, uống rượu với đôi vợ chồng người Thái, hay lắm. Dừng cuộc điện, nét mặt anh vẫn còn phấn chấn. Dường như Mường Phăng đã chinh phục anh hoàn toàn.
Tạm biệt Mường Phăng, đường về sao mà nhanh thế, dù chúng tôi đã cố đi chậm để khắc ghi những hình ảnh nơi đây mang về phố phường Hà Nội. Khi nghỉ tại một bóng cây ven đường, tôi hỏi bạn: “Anh thấy chuyến đi này thế nào?”. “Tuyệt vời, đầu nhẹ tênh tênh”. Tôi định nói với anh về năm trước, đến một bản văn hóa ven thành phố Điện Biên Phủ uống rượu. Cũng có các cô gái Thái nhưng uống rượu kiểu “mông cổ”, “khát vọng 1”, “khát vọng 2”; cũng có hát nhưng là … “Nếu không zô thì thôi đã zô rồi một trăm phần trăm”… thật quá thể. Tôi định vậy nhưng kìm lại được bởi anh và tôi đang có một Mường Phăng lan lan thích thú. Mường Phăng! Mường Phăng! Hẹn ngày trở lại mảnh đất lịch sử, hấp dẫn du khách bởi sự chân thật, mộc mạc, hồn nhiên.


Read More..