Khói súng đạn đen đặc. Bầu trời, mặt đất như sắp ệp vào nhau.
Rừng rực, hừng hực, nghẹt thở, phấn
chấn.
Đụn khói quay
tròn, tiến lên xoay xoáy.
Mờ mờ đường cong nóc hầm đờ - cát.
Nhạc Giải
phóng Điện Biên vang rộn.
Chợt, khói thành cột, dựng đứng. Và,
khói tan ra, đội lên một người.
Đấy đấy, tôi kia kìa. Cái người khăn mặt
trắng vắt vai ấy. Đang từ đồi A1 sang… lúc này là qua cầu rồi… chú ý, chuẩn bị
đến hầm Đờ-cát nhé... Đâu đâu. Kia, như ông khổng lồ mà không thấy à. Chả thấy
gì, toàn khói là khói… à thấy rồi, nhiều
người quá, lẫn hết vào khói thế này.... Lẫn là lẫn thế nào, thế cái khăn mặt
trắng, vắt vai cái ông cao to kia không nhìn thấy à… Ờ ờ, có có nhưng nhoằng
một cái lại hết. Tua lại đi, mọi người đã bị cuốn hút. Tua cái con khỉ, tivi
chứ cát -séc đâu. Đây, người thật làm thật cho mà xem này.
Ông Soái cởi phăng áo, vớ cái khăn mặt, hắt
vèo một cái lên vai. Đầu gối nhấc cao… hai vai nhâng nhâng… khuôn mặt đón gió. Ông
bước như cảnh quay chậm. Nhạc Giải phóng
Điện Biên càng lúc càng vang vang, rầm rập từ tivi. Những đôi mắt no nê, mở
to… gần gần, xa xa.
Ông Trà như vô thức, bắn một điếu thuốc
lào, tiếng rít như súng liên thanh. Khói khói khói, trắng trắng trắng… lờ lững,
rập rềnh. Một lúc thì cái làn mỏng mảnh ấy tan trên đầu mọi người, quẩn xuống mất
hút. Cái chiếc khăn mặt trắng trên vai ông Soái như đang bốc khói.
Tivi đã chuyển sang bản tin tài chính. Mọi
người như máy hết điện nhưng còn quán tính, vẫn ơ ơ rung rung. Im lặng. Ông
Soái đứng đơ giữa nhà, dễ đến hơn phút như tượng. Ông Trà nói to - ông Soái,
lại uống nước đi.
Ông Soái lần ra ghế, đưa chén trà lên
môi, đặt xuống. … Thằng Tiến, thằng Minh, chúng nó về đông lắm Trà ạ. Cứ chạy đằng
trước tao ý, trắng trắng, thoăn thoắt thoăn thoắt… Thôi, làm điếu cho tỉnh táo
đi, nhìn mặt ông ghê lắm, ông Trà đưa điếu sang. Ông Soái ngồi xổm, đầu gối đến
cằm, hai vai quá tai, mắt hõm vào, hoăm hoắm.
Xuất xứ “Khăn mặt trắng vắt vai” là như
thế. Nhưng lạ, mấy hôm sau thì cả xóm Minh Khai ồn ào chuyện ông Soái “vào tivi
giải phóng Điện Biên”. Chỗ nào có tivi mở là chỗ đấy bàn luận. Rôm rả, trầm
trồ, tự hào, cảm phục… rất thích.
- Cái dáng cao cao, xương xẩu thì đúng
là ông Soái rồi.
- Nhưng mà sao lại đen thế?
- Toàn súng với đạn. Năm mươi sáu ngày đêm/
khoét núi ngủ hầm/ mưa rầm cơm vắt…(1) còn đen hơn bùn ao, củ súng
ấy chứ lị.
- Ừ, thì bà đi dân công lên đó, biết chiến
trường khốc liệt… Nhưng mà tôi hỏi tất cả mọi người ở đây nhá… làm sao giữa
khói lửa mịt mù lại có cái khăn mặt trắng thế? Tôi cứ thấy… ỡm ờ… làm sao.
Chuyện tắc. Không ai giả nhời được. Tivi
chớp một cái, chuyển sang chương trình khuyến nông. Lại đợi, 15 phút nữa là có
thôi. Thì chuyện, dây cà dây muống…
Chuyện cái ngày xưa, 12 thương binh đánh
Điện Biên Phủ về làng làm con nuôi 12 gia đình. Ông Soái về nhà ông Mít. Ông
Mít nấu rượu lậu bị dân quân xã bắt, Soái bỏ đi buôn bè, lên Điện Biên, rồi về,
rồi già… ra cái khăn mặt trắng vắt vai.
Chuyện vèo một cái như thế không được,
chậm chậm, kĩ kĩ đi…
Soái cưới vợ sau cùng, rất đột ngột
nhưng vui nhất. Hôm ấy cả xóm Minh Khai đều tắt bếp. Lính Điện Biên nổi bật. Các
chàng trai áo trấn thủ, mũ lưới, sao vàng bên những cô vợ chửa khềnh khàng. Anh
Trà làm chủ hôn, điều khiển văn nghệ. Giải
phóng Điện Biên, Hò kéo pháo, Đường lên Tây Bắc, Ing lả ơi… mãi không hết. Cỗ
lo hẻo quá, hóa ra ổn. Tiếng hát nhiều, rượu vừa độ. Vui ngân mãi.
Mâm dọn đi rồi, bàn nước chỉ còn mấy
người chuyện vãn. …Thế là mừng cho cánh lính Điện Biên. Từ nay con chim có tổ
hết rồi. Phục ông Mít thật đấy. Con nuôi mà hơn cả con đẻ. Tôi cũng phục nhưng
vừa vừa thôi…Vừa vừa là thế nào? Sát đất đi chứ. …Ừ thì sát đất nhưng mọi người
cứ thử nghĩ đi…
Câu chuyện đang ngoặt đi hướng khác thì Soái
đến. Cánh lính bảo luôn, mang vợ ra đây, chuyện với chúng tao một lúc. Nó còn
đang rửa bát, thôi kệ. Nói thế nhưng Soái vẫn gọi, Tỵ ơi Tỵ ơi ra đây ngay. Tỵ
ra, cả bọn tròn mắt như nhìn lần đầu. Tỵ ngồi xuống, anh nào cũng lập tức uống
nước. Cái khăn mỏ quạ còn ánh nhựa nâu, cái áo bà ba diềm bâu trắng chả nước
non gì với khuôn mặt gân gân khô khốc, cái mũi tẹt dí, cái môi như vều như
sưng, nước da đen cháy... Nhà em ở dưới Lải à, sao bọn anh không biết nhỉ? Vâng,
nhà em ở trên đồi bạch đàn. Thế nào mà anh Soái lại tìm được em nhỉ, em tốt số
thật đấy. Không, anh Soái không tìm, ông Mít nói gả cho thằng Soái với bố em.
Em mới biết anh Soái từ phiên chợ trước. Chồng thương binh, vợ gái đồi về xóm soi
biết có nuôi nổi nhau không - có người lắc đầu, thở dài...
Sau tuần trăng mật ở cái nong dưới bếp
thì Soái ra ở riêng. Cái ăn, vợ chồng được mang theo một tải thóc. Nhưng cái ở thì…
một ngôi nhà mới tinh bên bờ sông. Cột tre, vì kèo, đòn tay hóp, dui nứa, vách
nứa, mái gianh... (toàn bộ vật liệu lẽ
ra là nhà của Xoan, em cô). Trước khi “phạt mộc” ông Mít nói, gì thì cũng phải
ưu tiên con trai. Bà Mít có bậm bục, lủng bủng; Xoan thì xị mặt ra, mãi sau mới
nói một câu, con chẳng tiếc gì nhưng… ghét mặt cái con cá mắm ấy. Ông Mít quát luôn, tao không muốn để cái loa
trong nhà. Bà Mít bỏ xuống bếp. Ông Mít chạy theo nói, đang sắp hết “nước hai”,
để tôi, bà động vào là hỏng đấy.
Đương mùa lũ, sông nhiều củi, bến nhà
Soái thành điểm tụ họp của những người vớt củi đêm.
Chập tối, Soái đã treo cái đèn bão lên
cành xoan. Dưới gốc xoan có ấm trà nóng, điếu cày thuốc lào, đóm nứa ngâm.
Tầm nửa tiếng, thuyền về bến. Tiếng vứt
củi lịch kịch, tiếng kể sung sướng, tiếng xuýt xoa tiếc rẻ vì để tuột mất cây
gỗ… Rồi trà đấy, thuốc đấy làm chén, làm điếu cho tỉnh táo. Lúc khoan khoái quá
thì chuyện với vào - Soái ôi, buông vợ ra đây làm chén nước đã. Anh Soái này,
có con am am (2), tóc xõa đen xì đang ngồi với em, nó bảo yêu anh
Soái cơ… Như Nguyễn Văn Soái là nhất, vợ sẵn, nhà sẵn, tối tối rượu say bò cưỡi…
Những câu nói vào bụi tre, dòng sông.
Trong nhà tối đặc, theo gió đêm có tiếng cọt kẹt, không biết có phải bụi tre cựa
mình hay không...
Mặc kệ, bên ngoài cứ tán, cho đêm đỡ
buồn, cho sông đỡ rợn.
Nhưng đêm nay thì Soái ra, lúc gà gáy sang
canh hai.
- Mọi người uống nước đi.
- Chúng tôi uống no rồi.
- Sao không đi vớt củi… mê vợ quá à?
- Gà không, lợn không. Mỗi hai thằng
người đun đáng bao nhiêu.
- Có mà lí sự lười ý.
- Ừ, thì tôi lười nhưng tự nhiên chán, cả
làng này chăm mà vẫn đói… Có khi phải tìm việc khác thôi. Soái thở dài.
Cả đám tức quá, xịt răng nghĩ câu đốp
lại. Chợt lúc ấy, phía Lang Sa, sấm ùng ùng nổi lên, cơn giông ập đến. Mưa liền
ngay. Đám vớt củi nháo nhào xuống thuyền, xuôi dòng về nhà.
Đêm hôm sau, dân quân ập đến nhà ông Mít.
Không còn chối cãi vào đâu được nữa, nồi rượu đang sôi, vòi đang tong tong, lại
còn một chum dễ đến trăm lít giấu tít bụi chuối góc vườn.
- Nể ông nuôi thương binh chúng tôi chỉ
xin mấy tang vật này.
Thằng cháu họ nói và giơ thẳng chậu nước
lên, dội xuống bếp. Khói nóng, bụi than sộc lên mắt. Ông Mít òa khóc, nhìn bỗng
đổ lênh láng ra nhà; xoong nồi, ba ba, vòi, chai… đang trong cái sọt khênh đi. Ông
há mồm nhìn, rồi tự nhiên rống lên, Soái ơi, Soái ơi…
Sáng hôm sau, chiếc thuyền đầu tiên
xuống bến báo tin buồn cho Tỵ. Tỵ vào gọi chồng thì giường không, xuống bếp, ra
vườn cũng không. Lúc quay vào thì Tỵ chợt thấy bức vách có dòng chữ bằng than -
tôi phải đi xa, ở nhà tự lo liệu, nếu
thấy chửa thì đừng tham gánh phân. Tỵ vuốt tay xuống bụng, nước mắt cứ thề
trào ra.
*
Soái
lên ngọn sông với cánh phường bè. Chuyện này mình Soái quyết. Cái đêm đầu tiên
ra nhà mới, sau khi vợ chồng làm cái ân ái gọi là chào mừng, Soái vơ vẩn ra
bến. Đang ngồi chồm hỗm nhìn dòng nước lóa lóa thì thấy cái bè bắt neo. Người
dưới bè lên, ướt như chuột lụt. Em hết thuốc, hết chè từ chiều, sợ đêm nay ngủ
gật, thấy chỗ này có ngọn đèn… Được, thoải mái, ngồi đấy đợi nhé. Soái về nhà,
một loáng mang ra, một cái bị con, một cái rá còn ba củ khoai. Soái nhìn anh ta
hút, uống, ăn lâu quá thì sốt ruột hỏi:
- Thế bè này xuôi về đâu?
- Em về Thái Bình.
- Thái Bình chắc lúa tốt lắm nhỉ?
- Chỉ được cái tiếng thôi. Bất đắc dĩ vì
cái dạ dày bố mẹ vợ con, em mới phải đem mạng mình nhem nhem hà bá thuồng luồng
thế này.
- … Cho anh đi theo được không?
Nói xong Soái mới biết mình lỡ lời. Nhưng
anh kia đã reo lên:
- Ôi tốt quá, em đang cần người, anh đi
với em … người ven sông chắc chắn là thạo sông nước.
- Không, anh không phải là người đây,
nhưng bơi lội, thuyền bè cũng tạm.
Soái kể thật thân thế. Anh kia mừng rỡ -
càng hay, bè em mà được anh thì như có lá bùa hộ mệnh rồi.
*
Soái đi, một tháng, hai tháng… nửa năm,
không tin tức.
Bụng Tỵ đã to như cái trống, việc hợp
tác xã cũng chỉ nhổ mạ, cấy, gặt ngày lấy 7, 8 điểm. Dạo này Tỵ không trèo lên
được cây xoan nữa, cái đèn bão vẫn trên đó, lắc lư như cái tổ không có chim.
Ông Mít đã kệch hẳn nấu rượu từ đận ấy. Mùa
nước bắt đầu thấy ông vớt củi đêm. Thuyền ông không ở dòng chính, cứ một mạch tít
sang gần bờ bên kia. Ấy thế mà toàn củi chũa,
bằng bắp chân bắp tay, thau tháu, ánh nước. Ba đêm, đống củi vợt lên bến to như
quả núi thì ông nghỉ. Cả ngày một mình ông vác, gánh lên vườn nhà con dâu. Tỵ
thấy bố chồng vất vả, vừa mon men lại thì bị quát, đành lấy cái chổi quét lá
tre lá nhãn.
Đến tối mò thì xong, ba cầu gọn gẽ, đậy
điệm yên tâm. Ông Mít gọi Tỵ ra bảo, nấu ăn hàng ngày một cầu này nhé, còn hai
cầu này lúc nào đẻ sẵn đấy mà sưởi, sấy tã lót… Mẹ mày tính lúc đẻ là rét đấy. Tỵ
rơm rớm nước mắt bảo, giá anh Soái ở nhà thì bố không phải khổ. Ông Mít lắc
đầu, tại nó… mà cũng tại cả bố.
Đêm ấy, Tỵ không ngủ được. Lũ đã hết
đợt, không còn ai vớt củi. Tỵ ngồi vơ vẩn, đăm đắm vào phía xa đen đặc. Anh
Soái ơi, anh bỏ đi mà chẳng bảo đi đâu. Anh Soái ơi, chúng mình có con rồi,
chắc là con trai đấy, em thấy nó đạp mạnh lắm. Anh Soái ơi, anh về đi, không
con gọi bố là anh nóng tai đấy. Tỵ chắp tay, lạy lạy lạy... Đêm vẫn đặc quánh,
tiếng bồi băng, “tang giếng” ngoài dòng ùm ùm, oẳm oẳm như như am am gặp người
tháo chạy.
- Chị ơi, cho em hỏi anh Soái…
Tỵ giật mình tưởng ma. Không, một người
ướt lướt thướt đang cầm cái sào đứng trước mặt. Anh ở chỗ anh Soái về à? Tỵ
không suy nghĩ, hỏi luôn. Không, anh Soái đi với bọn anh nhưng lại đi… không
biết đi đâu. Kệ cho Tỵ nắm áo, cào cấu, hết mệt thì anh phường bè kể.
… Thật không hiểu anh Soái là người gì. Lần
ấy, bọn anh xuôi hơn trăm cây dổi. Đã dặn trước, cả năn nỉ phân tích với Soái
là gặp kiểm lâm thì như thế, như thế... Nhưng đến trạm thì hỏng bét. Kiểm lâm hỏi,
nghe nói trong bè có anh là thương binh Điện Biên Phủ phải không? Tay kiểm lâm quần
áo lính, mặt mũi dễ gần, giọng nói lại có vẻ ủng hộ. Tôi ẩy tay sang Soái, nói
khẽ, cứ thế anh nhé, anh bảo đúng, rồi chìa thẻ ra…
-
Bè này không có ai là thương binh hết. Không có ai là lính Điện Biên Phủ hết…
Chết rồi, Soái nói xong rồi, hết đường
thoát rồi. Chúng tôi lên bờ, ký vào biên bản. Độ hơn tiếng anh em chán đời, vạ
vật trên bãi cỏ thì một kiểm lâm đi ra:
- Mời các đồng… chí… buôn… bè…. vào ăn
cơm.
Chúng tôi lưỡng lự, không dám, vì thân
phận tội phạm, vì hai tiếng buôn bè vừa
đai ra, giễu nhại. Một lúc, không ai vào, anh mặc bộ quần áo lính lúc nãy ra
tươi cười, thôi việc gì ra việc ấy, chúng tôi vì nhiệm vụ không thể khác được… Gặp
bữa sông nước như thế này, xin mời các anh.
Kiểm lâm ngồi sẵn, phường bè vào, tròn
hai mâm. Tôi giật mình không thấy Soái. Ra ngoài tìm, gọi mãi không thấy…
Sau vụ ấy, chúng tôi không dám liều nữa.
Xé lẻ mà đi, hai ba người một bè, mỗi chuyến mươi cây gỗ “tàu ngầm” dưới nứa
bương.
Bây giờ tôi cũng chẳng biết là anh Soái
đi đâu. Chuyến này nước êm, tôi lên nhà, có khi anh Soái đã về. Tỵ xụt xịt
khóc. Anh bè đưa cái ba lô, còn cái này của anh Soái bỏ lại, gửi chị. Tỵ ôm ba
lô, thọc tay vào thấy lạnh ngắt. Bình tông, cái lược, con dao.
Ới anh Soái ơi, anh Soái ơi, anh ở đâu
về với mẹ con em…. Tỵ vật vã khóc váng cả bến sông. Cả xóm tỉnh giấc chạy ra,
thấy mỗi người đàn bà quay tròn. Dòng sông lóa lóa, nhập nhằng như đánh nhau
ngoài xa.
Tỵ sinh con trai tại nhà. Bà Mít, cô
Xoan đỡ đẻ trong buồng, ông Mít ngồi ngoài dỏng tai nghe. Có tiếng oe oe, ông Mít
chạy vào, bị xua ra.
May không giống mẹ - tiếng Xoan. Rồi
nữa… cái mũi cao, trán rộng, mắt sáng rõ là Soái con rồi - tiếng bà Mít.
Ông Mít nhắm mắt, gật gật đầu, phải thế
chứ.
*
Hai năm sau Soái về. Đen cháy.
Soái không về nhà mình ngay mà vào nhà
Trà.
Trà đang đan dành dưới búi tre. Có một
cái đò dọc ngược dòng. Trên mũi, cao hẳn lên một người cởi trần, áo vắt một
vai, khăn mặt bộ đội vắt một vai. Trà bắt xong bốn góc, chợt ngẩng mặt lên, lập
tức kêu toáng - Soái! Đúng thằng Soái rồi. Và…; Trà ơi… phóc một cái, Soái lên
bờ, ngay trước mặt. Hà hà hà, tưởng tao chết mục xương rồi à. Soái giang tay,
ưỡn ngực; đánh D1, A1 không chết, chết làm quái gì mấy cái trò ma toi.
Trà bỏ cái dành đan dở, kéo Soái về nhà.
Tao phải trốn chúng nó về, bí mật bất ngờ… mỗi cái thằng Soái và cái khăn mặt,
xung phong… xung phong...
Tiếng Soái oang oang dọc vườn chuối,
vườn xoan. Loáng một cái, mấy nhà xung quanh biết; Soái, Trà bị già trẻ gái
trai quây kín. Ghế hết, người đứng, người ngồi giường, ngồi bậu cửa…
- Thế anh đi đâu mà bỏ vợ con, bỏ bố mẹ,
xóm làng.
- Dạ… con đi buôn bè.
- Anh nói thế, đi bè thì phải qua sông.
Vợ trẻ hơ hớ trên bờ… có mà nửa đêm cũng nhảy ùm xuống.
Khà khà khà. Thôi con nói thật. Con trốn
đi bè, trốn bè lên Điện Biên, rồi lại trốn Điện Biên về đây.
Lên Điện Biên, mày không đùa đấy chứ?
Trà đứng lên, lắc vai Soái. Soái hát to - Giải
phóng Điện Biên/ Bộ đội ta vẫn không quên chiến trường/ Giữa mùa hoa nở miền
Tây Bắc tưng bừng reo…Đoàn binh Việt Nam pay/ Lao hừ hứa hướn…(3)
Vòng người rộng ra, Soái ở giữa, như cái xoáy nước, tất cả xoay xoay theo lời
hát. Cái khăn mặt màu cỏ như bay cùng đôi vai vạm vỡ…
Tiếng hát, cuộc vui chẳng biết lúc nào
dừng nếu cụ Thinh không hỏi - Thế anh Soái chưa về nhà à?
Tất cả ớ ra. Soái như bị ngộ gió, mặt
mũi im tinh.
Đoàn người lại rầm rập theo lối bờ sông.
Soái dẫn đầu, gần đến nhà, mấy đứa trẻ ẵm em lếch thếch chạy lên trước báo tin.
Tỵ đứng nép vào con, mắt đỏ hoe. Soái ào
tới, bế bổng thằng cu lên, quay tròn, thơm má chụt chụt, thổi rốn phịt phịt. Ông
Mít rẽ đám đông, kéo bà Mít vào; hai người ôm vừa hết một vòng bố con Soái. Tỵ
bị ở vòng ngoài, nước mắt đầm đìa, đang nấc lên thì cái vòng ông bà bố con tiến
đến, nhập vào.
Bà Dương hàng xóm xách sang con gà trống,
bảo, may quá nó hay lêu lổng vẫn úp sập từ hôm qua, bà biếu anh Soái, mừng chị
Tỵ.
Hai chị đón gà, xuống bếp cắt tiết. Mấy
chị khác vội lấy dao cắt đài chuối khô trước sân... Cứ như nhà có đám.
Mãi, đến chiều tắt mặt giời, khách mới
vãn vãn. Bà Mít bảo, thôi tranh thủ ăn cơm, tối còn nhiều khách nữa.
Mâm cơm dọn dưới bếp, chị hàng xóm lên
giục, cơm xong rồi mấy lần. Đến khi bà Mít phải bảo vợ chồng Soái, khách khứa
để bố mẹ tiếp, xuống mà ăn đi mới được.
Tỵ gắp cho thằng cu cái còng, Soái miếng tiết xong, thì chợt nhớ
chưa có rượu. Tỵ đứng lên, Soái nắm tay lại, Tỵ hỏi, thế không uống rượu à. Soái
nắm tay Tỵ, lắc đầu, cai rồi. Tỵ để yên tay mình trong tay Soái, râm ran, khó
thở... Một lúc thì Tỵ nói, nghèn nghẹn như đầy lưỡi… đồ phét lác, có mà cai
đội. Soái ôm vợ, nói như gió mát, thật mà… tại rượu bố Mít mới cưới em cho anh,
tại rượu anh mới phải bỏ đi… Tỵ nhớ lại, những điều dân làng xì xào, bây giờ
thì chồng nói rõ.
Buổi tối, nhà Soái Tỵ sáng trưng. Đèn
trong nhà, chục cái Hoa Kỳ; đầu hồi, trước sân bốn cái đèn bão; cả cái trên
cành xoan ai cũng đã thắp từ lúc nào. Tiếng cười nói, tiếng điếu cày roét roét
rung cả vách. Cánh lính Điện Biên ngồi hai bàn với Soái. Soái kể đi kể lại
không biết bao nhiêu lần… Tóm tắt lại là - … Soái lên Điện Biên, có mỗi cái
khăn mặt, cái thẻ thương binh. Lính Điện Biên ở lại Điện Biên rất đông, nông
trường gần như trăm phần trăm công nhân lính. Soái đến, cánh trên đấy mừng hú. Soái
chơi hai hôm thì chính thức thành công nhân. Vui lắm, nhổ lạc, hái cà phê, lao
động, sinh hoạt theo hiệu lệnh kẻng, chả khác mấy thời lính.
Làm sao lại ở trên đấy được những hai
năm nhỉ? Mày trả lời đi, tại sao biệt tích. Trà ngắt lời Soái. Mấy anh bạn cũng
nhao nhao - đúng đấy, khó hiểu, ma mãnh rủ rê làm sao!
… Thì cái nấu rượu đấy… thì cái lấy vợ
đấy… Soái cười cười nói nói.
Ha ha ha… Ruỳnh ruỳnh ruỳnh…. Tiếng
cười, tiếng đập bàn của cánh lính hút ánh mắt về. Hàng xóm, người không hiểu ra
làm sao; người nói dựa, bộ đội với nhau lúc nào cũng bốc thế đấy.
Căn nguyên bỏ làng của Soái đã vỡ ra.
Soái lại đang oang oang tiếp… tao sang hầm Đờ-cát giữa trưa nắng gió Lào. Tao
vừa bước chân lên cầu sắt, cơn lốc ở đâu ập đến, như muốn bốc người lên giời. Tao
đã tưởng mình biến thành đám mây trắng trên kia liền véo đùi một cái. Vẫn không
hạ, càng lên cao càng khó thở, chuyến này chắc chết rồi… Lúc ấy tự nhiên tao gọi
Minh ơi, Tiến ơi… lập tức người dễ chịu hẳn. Tao gọi tiếp hai chục đứa đại đội
mình, thấy thăng bằng luôn. Nhưng đến đoạn rẽ sang hầm Đờ-cát thì chân như đeo
cối đá, tao lại gọi tên từng đứa, không được, người mình cứ xoay tròn như con
trâu bị lãm quanh cái cọc. Mà hầm
Đờ-cát ngay kia; đen xì, cong cong như trêu ngươi. Có khi bọn nó không muốn cho
mình đến chỗ ấy cũng nên. Tao vò đầu bứt tóc, bốc mồ hôi đầy mắt. Tao lấy cái khăn
mặt, lau xong, vắt lên vai thì chao ôi… nhẹ tênh thênh thênh…
- Đúng rồi, chúng nó phải có chỗ đậu chứ.
- Có khi chúng nó đi theo để bảo vệ mày
đấy.
- Thấy anh em tiến về phía địch thì dứt
khoát phải yểm trợ, nguyên tắc chiến trường mà…
… Anh Soái kể chuyện ma à? Không làm gì
có ma nhưng tôi thề có con sông trước nhà… chuyện thật đấy. Đúng rồi ở đâu thì không
tin, chứ ở Điện Biên Phủ thì dứt khoát là thật.
Tự lúc nào, các bàn tụ lại bàn Soái,
cánh lính. Vòng trong vòng ngoài. Há mồm, nín thở.
Soái trình bày kế hoạch đưa vợ con lên
Điện Biên Phủ định cư nhưng ông Mít trước sau như một, dứt khoát không đồng ý. Soái
nghĩ là mình nói bộp đột ngột, bố sợ nơi rừng thiêng nước độc, xa cùng xa kịt…
bèn nhẹ nhàng. Soái bảo trên đấy mát lắm, chả bao giờ phải cất chăn bông, mùa
đông cũng không bao giờ mưa phùn gió bấc, rét cứ êm êm. Đồng Mường Thanh, lúa phân
gio đơn giản mà tốt ù ù, nhãn xoài vụ nào cũng sai trĩu cành… Ông Mít có vẻ bị
cuốn hút, mấy lần hỏi thật hay là mày bốc lên đấy. Được dịp, Soái quay lại chủ
đề, con nghĩ là đất đâu cũng đất nhà giời, vợ chồng con lên đấy sẽ khá giả...
Ông Mít tỉnh ngay lập tức, không được, nếu anh khăng khăng đi thì hết luôn bố
con. Rồi ông khóc… hay là anh nghĩ tôi là bố nuôi, không máu mủ ruột rà. Tôi
chỉ có mình anh với cái Xoan, cái Xoan là phận gái, lại nhỡ nhàng. Còn anh, bố
hiểu lính trận có điều thiêng liêng vẫy gọi… Nhưng 11 thương binh cùng đợt với
anh, ai cũng lấy Động Lâm làm quê hương của mình rồi. Quê hương có bố mẹ, anh
em, làng xóm… có nghĩa trang liệt sỹ.
Im lặng… Khó khăn lắm Soái mới cất nhời tiếp
được - vâng, con nghe lời bố, bố là bố của con. Nhưng con chỉ xin với bố một
điều, dịp nào đó cả nhà mình sẽ lên Điện Biên, thăm nơi con đã chiến đấu, bạn
bè con còn nằm lại…
Soái gục mặt xuống bàn, đôi vai rung lên
thổn thức. Ông Mít đứng lên, đi vòng quanh chả biết làm gì cho nên cho phải.
*
Việc lên Điện Biên với Soái cứ mãi xa
tít. Năm sau thằng cu thứ hai ra đời. Tiếp theo hai lần ba năm đôi, vợ chồng
thêm bốn cô con gái. Ngôi nhà tre chật níc tiếng khóc quấy, đòi ăn, mũi dãi, xoong
nồi, dành, sọt, liềm, hái…
Anh Soái, chị Tỵ thoắt thành ông Soái,
bà Tỵ. Điện Biên với Soái chỉ còn mờ mờ. Rất lâu, mới có những buổi mưa dầm đến
nhà ông Trà chuyện phiếm và dịp 22 tháng 12, hội cựu chiến binh gặp mặt dưới ủy
ban xã. Thế không đi Điện Biên nữa à? Một lần ông Trà nhắc lại (cũng là mình
muốn), Soái cười như mếu, muốn đi nhưng đếch có tiền.
Dựng vợ gả chồng cho sáu đứa con xong
thì Soái đích thị là một ông già - Tóc trắng, miệng móm, mặt mũi nhăn nheo (may
lưng không còng).
Cuối năm 2013, sáu đứa con quyết tâm,
hợp lực xây ngôi nhà cấp 4 cho bố mẹ. Cuối năm đó điện lưới về xã. Lập tức
thằng cả lên ngay thị xã rước hẳn cái tivi màu 21 in về.
Có tivi ông Soái lại hay đi chơi. Thời
sự, ca nhạc, quốc phòng, nông nghiệp nông thôn… đủ thể loại, vùng miền, toàn
chương trình hay; thế mà ông chả chịu ngồi xem. Có, ông thích xem, nhưng từ dạo
ra giêng… hướng tới kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.
“Giải phóng Điện Biên” trùm khắp các
chương trình. Điện Biên Phủ… Điện Biên Phủ… Điện Biên Phủ… từ sáng đến khuya làm
cả xóm rộn rã. Ông Soái xem đi xem lại cảnh khói lửa, quân ta ào ạt qua cầu
sắt, cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm Đờ-cát. Đúng rồi! Đúng quá! Ông kệ
tivi đấy bước đi như trong mơ.
Đấy
đấy, tôi kia kìa. Cái người khăn mặt trắng vắt vai ấy. Đang từ đồi A1 sang… lúc
này là qua cầu rồi… chú ý, chuẩn bị đến hầm Đờ-cát đấy...
Ông vào những nhà đang mở tivi, giảng
giải, chỉ trỏ. Ông ra ngoài đường hát vang. Cái dáng cởi trần lêu đêu, khăn mặt
trắng vắt vai đang chầm chậm trong khói lửa Điện Biên Phủ.
Ông Soái như người khác, khỏe khoắn vui
tươi hẳn lên, thanh niên hẳn lên. Cứ như thế, tận sang tháng 6/ 2014 thì ông
mất. Lúc tắt thở, miệng còn he hé nụ cười nhưng đôi mắt… vẫn mở to, long lanh,
náo nức. Anh trai cả vuốt mãi mà mắt bố không nhắm. Bà Tỵ bảo lấy rượu bóp. Ông
Trà nghe sợ quá, quát luôn - đưa ngay cái khăn mặt trắng đây?
Ông Trà ra, cầm cái khăn, tự nhiên lưng
còng xuống như bê bao thóc. Cái khăn vừa chạm mặt thì ông Soái từ từ khép hàng
mi. Nụ cười vẫn nguyên.
Tiếng khóc nổi lên. Nắng sớm, gió ngoài
sông òa vào, quẩn quẩn rập rờn lay lay ngọn khói hương.
Soái ơi, tao thấy chúng nó về rồi, mày
đi với chúng nó nhé - ông Trà nấc lên. Những mái đầu bạc trắng, cúi lặng xuống
cái khăn, tất cả cùng bạc trắng.
(1)
Thơ Tố Hữu.
(2)
Con gần như ma, hay tóc tai xõa
xượi ngồi ở bờ sông, dân ven sông hay lấy nó để dọa người yếu bóng vía.
(3): Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu
quốc (Quốc ca - Tiếng Thái)
Viết xong, 20/8/2015
D.
A