Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

Tập truyện NGƯỜI RỪNG RỪNG NGƯỜI của DU AN - Liên hệ: 0946251996.


Theo “Người rừng Du An” đến “rừng người” Tây Bắc
(Đọc Người rừng rừng người của Du An, NXB Hội Nhà văn, 2015)

Đoàn Minh Tâm


Trong một lần trà dư tửu hậu, khi bàn về “nẻo vào văn học” của giới cầm bút, nhà thơ Nguyễn Bình Phương cho rằng: mọi người đều khởi nghiệp bằng thơ, sau đó tiếp tục “chung thân” với thi ca hay rẽ sang văn xuôi hay nghiên cứu - phê bình, tùy vào tạng viết bản thân. Chúng  tôi muốn nói tiếp thêm rằng, trên con đường ấy, dẫu đã “trung thành”, “an phận” thì họ (những nhà thơ, tiểu thuyết, nghiên cứu - phê bình) cũng sẽ có đôi lúc “dính” vào truyện ngắn vào một thời điểm nào đó trong đời. Có nhà văn cả cuộc đời cầm bút không viết một cuốn tiểu thuyết, một bản trường ca, một bài nghiên cứu - phê bình nhưng sẽ “dan díu” với truyện ngắn vì sức quyến rũ của nó. Không viết truyện ngắn, con người ta sẽ có cảm giác “thiêu thiếu” một cái gì đó.
Du An là một trong những trường hợp như thế. Xuất phát điểm từ thơ, đã giành nhiều giải thưởng thơ có uy tín như của Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số, tạp chí Văn nghệ Quân đội… song Du An vẫn “cặp kè” với truyện ngắn một cách “tất nhiên nhi nhiên”. Sau tập truyện ngắn Lông gà và lá chuối xuất bản năm  2014, chỉ sau đúng…365 ngày, anh lại in tiếp Người rừng rừng người như một lời khẳng định chắc nịch về khả năng cơ động “hai tay hai súng” của mình.
 Truyện ngắn theo quan niệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một lát cắt về cuộc sống. Tuy nhiên, lát cắt ấy dài hay ngắn, dầy hay mỏng, nông hay sâu, ở vị trí nào lại phụ thuộc vào quan niệm, tài năng của từng người. Trong Người rừng rừng người, Du An đã lựa chọn cảnh sắc, địa danh, con người, phong tục tập quán, lề thói sinh hoạt mang dấu ấn đặc trưng của vùng núi Tây Bắc - nơi anh coi là quê hương thứ hai của mình - làm đích đến của nghệ thuật. Sẽ thật không ngoa khi nói rằng có một “xã hội” thu nhỏ đang vận động, biến chuyển trong Người rừng rừng người. Miền núi phía Bắc hiện lên qua ngòi bút của Du An với một bên là những con trâu cày, ngựa thồ thong thả bước đi trên ghềnh núi ngoằn ngoèo, một bên là tiếng gầm rú của động cơ xe máy, ô tô lao vun vút trên những con đường nhựa mới mở. Không gian vùng Tây Bắc ấy trải dài đến mênh mông với những nương đồi xanh bát ngát đang đến độ thu hoạch của những người dân yêu lao động và thu mình, nhỏ bé với những viên ma túy đá, những gói heroin được giấu kín trong bụi cây, lùm cỏ bởi khát vọng đổi đời nhanh chóng và sự tham lam vô độ của con người. Ở đó, có những con người vùng cao sống thật thà chân chất và có những màn đấu đá, kèn cựa, vòi vĩnh lẫn nhau của những công chức, viên chức tỉnh lẻ. Để lột tả chân thực sự vận động, dịch chuyển ấy, Du An đã sử dụng không gian như một giải pháp chính. Trong nhiều không gian của Người rừng rừng người như núi rừng, vực sâu, công sở, trường học…chúng tôi đặc biệt chú ý đến không gian ngôi nhà. Nhà là không gian gia đình, tượng trưng cho tổ ấm, cho sự che chở, yêu thương, đùm bọc với mỗi con người. Trong tâm thức người Việt Nam nói riêng, người phương Đông nói chung (và có lẽ là tâm thức của toàn nhân loại) hai tiếng “nhà - gia đình” ẩn chứa những giá trị thiêng liêng vô cùng. Nhà - với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật - trong truyện ngắn Du An lại mang tính “hai mặt”. Nhà một mặt vừa là tổ ấm, chỗ dựa vững chắc của mỗi con người, mặt khác lại là nơi con người muốn chối bỏ, giũ bỏ vì những lý do, hoàn cảnh khác nhau. Ngôi nhà là chỗ dựa, là nơi Nghiên (Đông xên) tìm lại chính mình sau khi thất bại trong việc hiện thực hóa giấc mơ công chức, là nơi che chở cho những em thơ (Hạt cơm đau) ngày ngày đi tìm ánh sáng toát ra từ những con chữ. Nhưng ngôi nhà là chốn mà Liến (Ở nương) buộc phải chối bỏ vì bố không chấp nhận việc cô lấy chồng sớm, đứt gánh giấc mơ đại học giữa đường. Bà mẹ (Tìm người) muốn trốn bỏ khỏi căn nhà nơi các thành viên khác trong gia đình (con trai, con dâu, cháu) ngày càng hờ hững, không quan tâm gì đến mình. Nhân vật nàng (Bên hồ), phải từ bỏ gia đình vì trót chửa hoang với một gã Sở Khanh. Bà Dẫn (Tiếng khóc từ nồi cơm) thường xuyên đến chơi, ăn cơm nhà người quen đến tối mịt với về. Bà sợ về ngôi nhà của mình, sợ phải đối mặt với di ảnh của hai người con trai đã hi sinh, sợ phải ăn cơm trong nỗi cô độc một mình. Thúy (Thúy không về) sau những cay đắng, tủi nhục với người chồng nghiện ngập đã bén duyên với người mới, cô không muốn về ngôi nhà chỉ để lại trong mình những tủi nhục, uất ức đấy nữa. Quả thật, không gì thích hợp hơn với việc miêu tả sự biến động của xã hội bằng việc xuất phát từ những biến động của ngôi nhà. Đây là biện pháp được nhiều nhà văn ưa chuộng.
Tuy nhiên, bên cạnh không gian không thể không kể đến vai trò của chi tiết. Nếu không có chi tiết hay thì những thủ pháp nghệ thuật đơn thuần chỉ là cái vỏ vô hồn. Đáng mừng là nhiều truyện của Du An có những chi tiết độcđắt. Trong truyện ngắn Hạt cơm đau, chi tiết các em học sinh ngỡ ngàng hỏi người phụ nữ rằng ăn cơm với thịt cá, nước canh, nước mắm có làm cơm… đau không, thật đắt giá. Nó phản ánh chân thật đến mức nhức nhối, khó chịu hoàn cảnh đói khổ, cơ cực của học sinh vùng cao. Sự giả dối đến đắng lòng của người lớn, sự hồn nhiên, ngây thơ, chất phác đến tội nghiệp của các em học sinh qua câu hỏi quyện lại thành những tiếng nén đầy chua xót cho những ai “trót” đọc. Truyện viết dung dị, ngắn về câu chữ cũng như dung lượng nhưng chỉ bằng một chi tiết, một câu hỏi đã làm tất cả bừng sáng trong thứ ánh sáng của nước mắt và tình thương được đánh thức ở tâm hồn mỗi con người. Một chi tiết phản ánh quá trình thâm nhập thực tế sâu sát của tác giả. Song, chi tiết chúng tôi đánh giá cao nhất trong toàn tập truyện lại nằm ở truyện ngắn Đông Xên. Một chi tiết cho thấy sức sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú, tinh tế của Du An. Trong truyện ngắn này, Du An nhắc đến một thứ mùi kì lạ, chưa từng xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ cuốn từ điển khoa học, sách vở nào: Mùi Nậm Tắc. Nậm Tắc là tên một huyện vùng cao mà Nghiên, một chàng sinh viên trẻ ra trường, muốn xin về làm. Trong những tháng ngày thử việc đó, thay vì công việc chuyên môn, Nghiên phải làm những việc như pha trà, rót rượu, giặt quần áo, nhậu đỡ các bậc cha chú… để mong có một suất biên chế chính thức. Sống trong tâm trạng lúc phải căng người ra phục vụ, dạ vâng; Nghiên thấy cuộc đời mình tệ hơn…chó: “Phải, mới tháng trước thôi, Nghiên làm con chó. Con chó chẳng được sủa gâu gâu, ngoáy đuôi chào mừng”. Không thể chịu được cảnh “vào luồn ra cúi”, Nghiên bỏ về nhà. Ở nhà, Nghiên bị thứ mùi nhuốm từ Nậm Tắc ấy hành hạ đến dở sống dở chết. Thứ mùi “tanh tanh lợm lợm như tinh trùng, khai khai nước đái, chua loét mồ hôi, khăn khẳn rượu thịt từ dạ dày nôn ra” làm Nghiên nôn thốc nôn tháo, nằm vật ra như người trúng gió. Thứ mùi ấy ngấm vào mùi Nghiên sâu đến mức “nó trốn vào xương tủy bây giờ bò ra lỗ chân lông sao”. Sau này chỉ nhờ lao động và bằng lao động, Nghiên mới rũ bỏ được cái mùi Nậm Tắc. Chỉ có lao động thật sự, không chịu quỳ lạy hay xin ân huệ của ai thì con người mới là chính mình. Ý nghĩa mùi Nậm Tắc thật thâm thúy, đáng suy nghĩ nhất là trong bối cảnh cử nhân thất nghiệp chưa bao giờ đông như hiện nay và tình trạng nhờ vả, chạy chọt xin việc đã là chuyện “thường ngày ở huyện”.
Mọi chi tiết đều được thể hiện qua nhân vật. Nhân vật không những là người mang vác chi tiết mà còn là linh hồn của câu chuyện. Về khía cạnh này có thể nói Du An đã xây dựng nên những nhân vật có chiều sâu. Anh có cái nhìn nhân hậu về con người. Trong quan niệm của anh, ai cũng có mặt được và chưa được, không ai hoàn hảo tròn trịa và không có kẻ táng tận lương tâm. Dưới ngòi bút của anh, một gã nghiện như Đương, Ban (Thúy không về), một kẻ buôn ma túy như Hoặc (Dưới vực) đều có những điểm, những cư xử hành động rất con người, những người con gái bỏ chồng theo giai như Thúy (Thúy không về), không nghe lời cha mẹ học hành, chạy theo tiếng gọi như Liến (Ở nương) hay nhẹ dạ cả tin bị lừa gạt như nàng (Bên hồ) đều đáng thương hơn đáng trách. Mặt khác, Du An còn xây dựng hệ thống nhân vật chức năng năng làm giảm thiểu những căng thẳng, xung đột, mâu thuẫn trong truyện. Đó đều là những người tốt, yêu thương và giúp đỡ người gặp khó khăn, hoạn nạn như thầy giáo Quảng trong Ở nương, thầy giáo Phong trong Nuôi lợn, tôi trong Hạt cơm đau, mợ Chiên trong Tiếng khóc từ nồi cơm… Chính nhờ các nhân vật này (và hành động của họ) nên mặc dù đều xoáy vào những bi kịch con người, nhưng các truyện ngắn của Du An không tạo nên cảm giác nặng nề, bức bối cho người đọc. Thêm nữa, xuyên xuốt tập truyện ngắn Người rừng rừng người là hình tượng người thầy giáo. Nhân vật này xuất hiện trong khá nhiều truyện. Đó là thầy Quảng trong Ở nương; cô giáo trong Hạt cơm đau; các thầy cô giáo Dũng, Phong… trong Nuôi lợn; Thắng, tôi trong Chữ đêm; Thanh, Hường, Hoan… trong Vườn khế. Ở các nhân vật này, đặc biệt là nhân vật xưng tôi trong các truyện đều phảng phất bóng hình của tác giả. Du An viết về những đồng nghiệp cũ bằng cảm hứng hồi cố, bằng con mắt của người từng trải nghề, qua đó giúp mọi người hiểu thêm về nỗi lòng và cả những “bí mật”, “khúc mắc” của những người “gõ đầu trẻ” nói chung, giáo viên vùng cao nói riêng.
Nhân vật, chi tiết được hòa quyện vào nhau trong một tổ hợp có tên gọi kết cấu, hay cấu trúc. Nơi quyết định chi tiết nào xuất hiện trước, chi tiết nào xuất hiện sau, nhân vật nào còn, nhân vật nào mất, giọng điệu của từng câu truyện… Và trong trò chơi về kết cấu ấy, Du An đã có sự dụng công, biến hóa rất khéo trong từng truyện. Với những câu chuyện như Hạt cơm đau, Tiếng khóc từ nồi cơm, truyện có kết cấu theo lối tuyến tính, giản dị, đưa người đọc đến ngay với điều mình muốn nói bằng những chi tiết xúc động. Những truyện cần truyền tải thông điệp nhiều tầng được mã hóa bằng những kết cấu phức tạp hơn. Bài hát nắng vàng có kết cấu song tuyến khá với dòng ý thức đan xen cùng những đoạn miêu tả hội thoại, ngoại cảnh, trữ tình… để làm bật lên cái…”phức tạp” trong đời sống tinh thần của người trí thức. Người rừng rừng người có kết cấu tựa bản trường ca huyền thoại nhằm tôn vinh tính mẫu…. Đó đều là những kết cấu hợp lí giúp câu chuyện có diễn tiến tự nhiên, không gượng gạo.
Có thể nói, với 14 truyện ngắn trong Người rừng rừng người, Du An đã hoàn thành bức tranh cảnh sắc và con người Tây Bắc của mình. Với những gì đã làm được trong tập truyện ngắn thứ hai này, chúng tôi tin anh sẽ chiếm được cảm tình của bạn đọc ngay cả với những người khắt khe nhất.
Đ. M. T


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét