Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

Tập truyện NGƯỜI RỪNG RỪNG NGƯỜI của DU AN - Liên hệ: 0946251996.


Theo “Người rừng Du An” đến “rừng người” Tây Bắc
(Đọc Người rừng rừng người của Du An, NXB Hội Nhà văn, 2015)

Đoàn Minh Tâm


Trong một lần trà dư tửu hậu, khi bàn về “nẻo vào văn học” của giới cầm bút, nhà thơ Nguyễn Bình Phương cho rằng: mọi người đều khởi nghiệp bằng thơ, sau đó tiếp tục “chung thân” với thi ca hay rẽ sang văn xuôi hay nghiên cứu - phê bình, tùy vào tạng viết bản thân. Chúng  tôi muốn nói tiếp thêm rằng, trên con đường ấy, dẫu đã “trung thành”, “an phận” thì họ (những nhà thơ, tiểu thuyết, nghiên cứu - phê bình) cũng sẽ có đôi lúc “dính” vào truyện ngắn vào một thời điểm nào đó trong đời. Có nhà văn cả cuộc đời cầm bút không viết một cuốn tiểu thuyết, một bản trường ca, một bài nghiên cứu - phê bình nhưng sẽ “dan díu” với truyện ngắn vì sức quyến rũ của nó. Không viết truyện ngắn, con người ta sẽ có cảm giác “thiêu thiếu” một cái gì đó.
Du An là một trong những trường hợp như thế. Xuất phát điểm từ thơ, đã giành nhiều giải thưởng thơ có uy tín như của Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số, tạp chí Văn nghệ Quân đội… song Du An vẫn “cặp kè” với truyện ngắn một cách “tất nhiên nhi nhiên”. Sau tập truyện ngắn Lông gà và lá chuối xuất bản năm  2014, chỉ sau đúng…365 ngày, anh lại in tiếp Người rừng rừng người như một lời khẳng định chắc nịch về khả năng cơ động “hai tay hai súng” của mình.
 Truyện ngắn theo quan niệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một lát cắt về cuộc sống. Tuy nhiên, lát cắt ấy dài hay ngắn, dầy hay mỏng, nông hay sâu, ở vị trí nào lại phụ thuộc vào quan niệm, tài năng của từng người. Trong Người rừng rừng người, Du An đã lựa chọn cảnh sắc, địa danh, con người, phong tục tập quán, lề thói sinh hoạt mang dấu ấn đặc trưng của vùng núi Tây Bắc - nơi anh coi là quê hương thứ hai của mình - làm đích đến của nghệ thuật. Sẽ thật không ngoa khi nói rằng có một “xã hội” thu nhỏ đang vận động, biến chuyển trong Người rừng rừng người. Miền núi phía Bắc hiện lên qua ngòi bút của Du An với một bên là những con trâu cày, ngựa thồ thong thả bước đi trên ghềnh núi ngoằn ngoèo, một bên là tiếng gầm rú của động cơ xe máy, ô tô lao vun vút trên những con đường nhựa mới mở. Không gian vùng Tây Bắc ấy trải dài đến mênh mông với những nương đồi xanh bát ngát đang đến độ thu hoạch của những người dân yêu lao động và thu mình, nhỏ bé với những viên ma túy đá, những gói heroin được giấu kín trong bụi cây, lùm cỏ bởi khát vọng đổi đời nhanh chóng và sự tham lam vô độ của con người. Ở đó, có những con người vùng cao sống thật thà chân chất và có những màn đấu đá, kèn cựa, vòi vĩnh lẫn nhau của những công chức, viên chức tỉnh lẻ. Để lột tả chân thực sự vận động, dịch chuyển ấy, Du An đã sử dụng không gian như một giải pháp chính. Trong nhiều không gian của Người rừng rừng người như núi rừng, vực sâu, công sở, trường học…chúng tôi đặc biệt chú ý đến không gian ngôi nhà. Nhà là không gian gia đình, tượng trưng cho tổ ấm, cho sự che chở, yêu thương, đùm bọc với mỗi con người. Trong tâm thức người Việt Nam nói riêng, người phương Đông nói chung (và có lẽ là tâm thức của toàn nhân loại) hai tiếng “nhà - gia đình” ẩn chứa những giá trị thiêng liêng vô cùng. Nhà - với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật - trong truyện ngắn Du An lại mang tính “hai mặt”. Nhà một mặt vừa là tổ ấm, chỗ dựa vững chắc của mỗi con người, mặt khác lại là nơi con người muốn chối bỏ, giũ bỏ vì những lý do, hoàn cảnh khác nhau. Ngôi nhà là chỗ dựa, là nơi Nghiên (Đông xên) tìm lại chính mình sau khi thất bại trong việc hiện thực hóa giấc mơ công chức, là nơi che chở cho những em thơ (Hạt cơm đau) ngày ngày đi tìm ánh sáng toát ra từ những con chữ. Nhưng ngôi nhà là chốn mà Liến (Ở nương) buộc phải chối bỏ vì bố không chấp nhận việc cô lấy chồng sớm, đứt gánh giấc mơ đại học giữa đường. Bà mẹ (Tìm người) muốn trốn bỏ khỏi căn nhà nơi các thành viên khác trong gia đình (con trai, con dâu, cháu) ngày càng hờ hững, không quan tâm gì đến mình. Nhân vật nàng (Bên hồ), phải từ bỏ gia đình vì trót chửa hoang với một gã Sở Khanh. Bà Dẫn (Tiếng khóc từ nồi cơm) thường xuyên đến chơi, ăn cơm nhà người quen đến tối mịt với về. Bà sợ về ngôi nhà của mình, sợ phải đối mặt với di ảnh của hai người con trai đã hi sinh, sợ phải ăn cơm trong nỗi cô độc một mình. Thúy (Thúy không về) sau những cay đắng, tủi nhục với người chồng nghiện ngập đã bén duyên với người mới, cô không muốn về ngôi nhà chỉ để lại trong mình những tủi nhục, uất ức đấy nữa. Quả thật, không gì thích hợp hơn với việc miêu tả sự biến động của xã hội bằng việc xuất phát từ những biến động của ngôi nhà. Đây là biện pháp được nhiều nhà văn ưa chuộng.
Tuy nhiên, bên cạnh không gian không thể không kể đến vai trò của chi tiết. Nếu không có chi tiết hay thì những thủ pháp nghệ thuật đơn thuần chỉ là cái vỏ vô hồn. Đáng mừng là nhiều truyện của Du An có những chi tiết độcđắt. Trong truyện ngắn Hạt cơm đau, chi tiết các em học sinh ngỡ ngàng hỏi người phụ nữ rằng ăn cơm với thịt cá, nước canh, nước mắm có làm cơm… đau không, thật đắt giá. Nó phản ánh chân thật đến mức nhức nhối, khó chịu hoàn cảnh đói khổ, cơ cực của học sinh vùng cao. Sự giả dối đến đắng lòng của người lớn, sự hồn nhiên, ngây thơ, chất phác đến tội nghiệp của các em học sinh qua câu hỏi quyện lại thành những tiếng nén đầy chua xót cho những ai “trót” đọc. Truyện viết dung dị, ngắn về câu chữ cũng như dung lượng nhưng chỉ bằng một chi tiết, một câu hỏi đã làm tất cả bừng sáng trong thứ ánh sáng của nước mắt và tình thương được đánh thức ở tâm hồn mỗi con người. Một chi tiết phản ánh quá trình thâm nhập thực tế sâu sát của tác giả. Song, chi tiết chúng tôi đánh giá cao nhất trong toàn tập truyện lại nằm ở truyện ngắn Đông Xên. Một chi tiết cho thấy sức sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú, tinh tế của Du An. Trong truyện ngắn này, Du An nhắc đến một thứ mùi kì lạ, chưa từng xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ cuốn từ điển khoa học, sách vở nào: Mùi Nậm Tắc. Nậm Tắc là tên một huyện vùng cao mà Nghiên, một chàng sinh viên trẻ ra trường, muốn xin về làm. Trong những tháng ngày thử việc đó, thay vì công việc chuyên môn, Nghiên phải làm những việc như pha trà, rót rượu, giặt quần áo, nhậu đỡ các bậc cha chú… để mong có một suất biên chế chính thức. Sống trong tâm trạng lúc phải căng người ra phục vụ, dạ vâng; Nghiên thấy cuộc đời mình tệ hơn…chó: “Phải, mới tháng trước thôi, Nghiên làm con chó. Con chó chẳng được sủa gâu gâu, ngoáy đuôi chào mừng”. Không thể chịu được cảnh “vào luồn ra cúi”, Nghiên bỏ về nhà. Ở nhà, Nghiên bị thứ mùi nhuốm từ Nậm Tắc ấy hành hạ đến dở sống dở chết. Thứ mùi “tanh tanh lợm lợm như tinh trùng, khai khai nước đái, chua loét mồ hôi, khăn khẳn rượu thịt từ dạ dày nôn ra” làm Nghiên nôn thốc nôn tháo, nằm vật ra như người trúng gió. Thứ mùi ấy ngấm vào mùi Nghiên sâu đến mức “nó trốn vào xương tủy bây giờ bò ra lỗ chân lông sao”. Sau này chỉ nhờ lao động và bằng lao động, Nghiên mới rũ bỏ được cái mùi Nậm Tắc. Chỉ có lao động thật sự, không chịu quỳ lạy hay xin ân huệ của ai thì con người mới là chính mình. Ý nghĩa mùi Nậm Tắc thật thâm thúy, đáng suy nghĩ nhất là trong bối cảnh cử nhân thất nghiệp chưa bao giờ đông như hiện nay và tình trạng nhờ vả, chạy chọt xin việc đã là chuyện “thường ngày ở huyện”.
Mọi chi tiết đều được thể hiện qua nhân vật. Nhân vật không những là người mang vác chi tiết mà còn là linh hồn của câu chuyện. Về khía cạnh này có thể nói Du An đã xây dựng nên những nhân vật có chiều sâu. Anh có cái nhìn nhân hậu về con người. Trong quan niệm của anh, ai cũng có mặt được và chưa được, không ai hoàn hảo tròn trịa và không có kẻ táng tận lương tâm. Dưới ngòi bút của anh, một gã nghiện như Đương, Ban (Thúy không về), một kẻ buôn ma túy như Hoặc (Dưới vực) đều có những điểm, những cư xử hành động rất con người, những người con gái bỏ chồng theo giai như Thúy (Thúy không về), không nghe lời cha mẹ học hành, chạy theo tiếng gọi như Liến (Ở nương) hay nhẹ dạ cả tin bị lừa gạt như nàng (Bên hồ) đều đáng thương hơn đáng trách. Mặt khác, Du An còn xây dựng hệ thống nhân vật chức năng năng làm giảm thiểu những căng thẳng, xung đột, mâu thuẫn trong truyện. Đó đều là những người tốt, yêu thương và giúp đỡ người gặp khó khăn, hoạn nạn như thầy giáo Quảng trong Ở nương, thầy giáo Phong trong Nuôi lợn, tôi trong Hạt cơm đau, mợ Chiên trong Tiếng khóc từ nồi cơm… Chính nhờ các nhân vật này (và hành động của họ) nên mặc dù đều xoáy vào những bi kịch con người, nhưng các truyện ngắn của Du An không tạo nên cảm giác nặng nề, bức bối cho người đọc. Thêm nữa, xuyên xuốt tập truyện ngắn Người rừng rừng người là hình tượng người thầy giáo. Nhân vật này xuất hiện trong khá nhiều truyện. Đó là thầy Quảng trong Ở nương; cô giáo trong Hạt cơm đau; các thầy cô giáo Dũng, Phong… trong Nuôi lợn; Thắng, tôi trong Chữ đêm; Thanh, Hường, Hoan… trong Vườn khế. Ở các nhân vật này, đặc biệt là nhân vật xưng tôi trong các truyện đều phảng phất bóng hình của tác giả. Du An viết về những đồng nghiệp cũ bằng cảm hứng hồi cố, bằng con mắt của người từng trải nghề, qua đó giúp mọi người hiểu thêm về nỗi lòng và cả những “bí mật”, “khúc mắc” của những người “gõ đầu trẻ” nói chung, giáo viên vùng cao nói riêng.
Nhân vật, chi tiết được hòa quyện vào nhau trong một tổ hợp có tên gọi kết cấu, hay cấu trúc. Nơi quyết định chi tiết nào xuất hiện trước, chi tiết nào xuất hiện sau, nhân vật nào còn, nhân vật nào mất, giọng điệu của từng câu truyện… Và trong trò chơi về kết cấu ấy, Du An đã có sự dụng công, biến hóa rất khéo trong từng truyện. Với những câu chuyện như Hạt cơm đau, Tiếng khóc từ nồi cơm, truyện có kết cấu theo lối tuyến tính, giản dị, đưa người đọc đến ngay với điều mình muốn nói bằng những chi tiết xúc động. Những truyện cần truyền tải thông điệp nhiều tầng được mã hóa bằng những kết cấu phức tạp hơn. Bài hát nắng vàng có kết cấu song tuyến khá với dòng ý thức đan xen cùng những đoạn miêu tả hội thoại, ngoại cảnh, trữ tình… để làm bật lên cái…”phức tạp” trong đời sống tinh thần của người trí thức. Người rừng rừng người có kết cấu tựa bản trường ca huyền thoại nhằm tôn vinh tính mẫu…. Đó đều là những kết cấu hợp lí giúp câu chuyện có diễn tiến tự nhiên, không gượng gạo.
Có thể nói, với 14 truyện ngắn trong Người rừng rừng người, Du An đã hoàn thành bức tranh cảnh sắc và con người Tây Bắc của mình. Với những gì đã làm được trong tập truyện ngắn thứ hai này, chúng tôi tin anh sẽ chiếm được cảm tình của bạn đọc ngay cả với những người khắt khe nhất.
Đ. M. T


Read More..

Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015

"Bầu trời trong tầm với của Du An" (Sách mới)



“Thanh bỏ ra ngoài xuôi dốc, rồi ngược dốc.
Mệt, thấy mệt thì đã đỉnh đồi. Gió thật mát.
Thanh nằm, ngửa mặt lên trời, Giơ tay như túm lấy trời.”

Lúc hồn nhiên, lúc thâm trầm, lúc tinh tế, lúc trần trụi, Lên cao thấy trời thấp thật giống như cuốn nhật kí của những giáo viên miền xuôi lên công tác vùng cao. Đó không chỉ là những bài giảng trong mùa đi nương, không chỉ dừng lại ở những đêm vượt dốc vận động các em đến trường. Đó còn là những khát khao, những suy nghĩ trong góc riêng tư của các thầy giáo, cô giáo, bị cuộc sống xô bồ miền xuôi khỏa lấp đi chỉ trực bùng nổ khi trái tim họ lơ lửng trên triền núi cao vời vợi. Du An để những nhân vật của mình bộc lộ tâm hồn một cách thật nhất, thật đến vô tư, thậm chí là trần trụi. Cuộc sống dưới gầm trời trong mắt nhà văn là một sự hòa hợp thú vị giữa những miền văn hóa khác nhau, đan xen giữa những trái tim của các nhà giáo miền xuôi với đồng bào nơi rẻo cao, nó thoắt ẩn thoắt hiện trong từng câu chữ rắn rỏi.
“Tôi ngồi trước tờ giấy trắng. Em ở đâu? Nghĩ ra cái tít rồi, vẫn không dám đặt bút. Tôi thấy dòng chữ trên khoảng không. Một chàng trai, không một trái tim khao khát yêu thương đang dò dẫm, con đường mới mở, đất đỏ bết. Có tiếng chào ông đi đâu. Giọng nói trẻ trung cất lên trong nắng mai: Tôi đi tìm hạnh phúc. Tiếng xích líp reo vang bình minh. Chòm râu bay bay…”
Tên sách: Lên cao thấy trời thấp thật
Tác giả: Du An
Thể loại: Truyện ngắn

Khổ sách: 13. 20,5
Read More..

Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

Truyện ngắn Du An - BÊN HỒ - Mới in báo VĂN NGHỆ CÔNG AN (6/7/2015) - http://vnca.cand.com.vn/Truyen/Ben-ho-357581/



Bên hồ

1

Nàng có một đứa con gái.
Y như nàng, da trắng, tóc dài đen mượt, bảy tuổi đã thấy dáng thanh mảnh.
Không giống nàng, đôi mắt to, lúc nào cũng như ngạc nhiên thích thú.
Nàng có nó từ hôm nào - Người bản không biết tính vòng kinh, ngày rụng trứng như thành phố. Nàng chỉ nhớ… sáng ấy, ăn củ sắn luộc từ tối hôm trước, nuốt chưa qua họng thì… ọe ọe, rồi ồng ộc. Băng băng dòng dòng vót vọt sắn loãng, rớt rãi…
Mẹ đến ôm bụng nàng. Nàng rướn thêm mấy chặp nữa nhưng không còn gì cả, chỉ nước mắt nước mũi vẫn đầm mặt, nhòe mắt.
Mẹ vừa lau mặt cho nàng vừa bảo, khổ rồi con ơi, mày chửa rồi.
- Bây giờ tính sao? Bố hất hàm vào con và mẹ.
- Ngủ với ai thì lấy người ấy, còn tính cái gì nữa. Mẹ giọng chắc chắn.

Nàng bảo anh ấy chăm chỉ, khỏe mạnh, tốt lắm. Anh hứa nếu con có thai thì hai đứa sẽ về Thái Bình báo cáo bố mẹ, làm luôn đám cưới dưới đấy, sau lên trên này cưới nữa.
- Thế thì tốt rồi. Nó đã biết mày chửa chưa?
- Mẹ nói thì con mới biết, chưa báo cho anh ấy.
Nàng chạy luôn đi. Cái đập nước đã xong, nhưng anh còn ở lại đợi nghiệm thu. Anh đang uống rượu cùng ba người trong lán. Nàng vào, tim vẫn thình thình, tiếng thở hãy còn ra tai.
Ngồi xuống luôn đi em, gì mà hớt hải thế?
Nàng không nói được, lặng lẽ chống đũa lên miếng cá. Anh nướng cá giỏi như người bản. Chỉ nhìn màu vàng rộm, trong họng, trong bụng đã nhấp nháy. Nhưng hôm nay…
Anh giục ba lần thì nàng ăn. … Chết rồi lại giống ở nhà… Nàng chỉ kịp kêu thầm như thế thì cả dòng thác ào ào qua miệng. Anh chạy sang ôm bụng nàng. Hai anh kia dừng chén.
Một anh hỏi:
- Em bị đau bụng à?
- Không.
- Em ăn gì cũng nôn à?
- Vâng. Em ăn sắn cũng nôn, ăn cá cũng nôn, mùi khói bếp cũng nôn...
Bữa rượu tan. Hai anh kia thì thầm với anh, rồi về. Anh đi dọn dẹp. Nàng bảo để em. Anh không cho, dìu nàng vào giường nằm, tiếp tục bưng bê lau rửa…
Một lúc thì tay anh vào xoa bụng nàng. Nàng thấy khỏe khoắn liền bảo, chúng mình có con rồi. Anh buông tay ra, nằm ngửa, nói - anh rất vui, nhưng anh phải ra thành phố gấp để điều chỉnh hồ sơ nghiệm thu. Nói đoạn anh hôn nàng, bàn tay đi suốt đằng trước, đằng sau nàng. Nàng hít hà, nuốt nuốt như muốn ăn hết anh.

2

Nàng mang đứa bé đỏ hỏn ra cái lều kỷ niệm. Một bà mẹ xanh lét, một đứa con non bấy, một ngôi nhà mái chạm vai, một cái giường một…
Năm ngày thì trong nhà không còn hạt gạo. Trưa ấy, nồi còn độ lưng bát cơm nguội, nàng đổ nước vào nấu cháo. Cháo muối ngon, ăn nhanh hết. Cả chiều, con bé khóc ngặt, nàng không nghĩ ra là để ít nước cháo bón cho nó.
Đến tối thì con bé sưng hết mắt, mặt phồng đỏ. Lâu lâu nó vục vào vú mẹ một tí rồi lại oặt cổ ra. Nàng bóp, dồn dồn từng vú. Không được, chỉ ri rỉ vài giọt nhờ nhờ.
Nàng mở to mắt, thấy nghẹn nghẹn trong cổ, rồi nước mắt bò bò trên má, xuống cằm, hai bầu vú. Nước mắt đang tụ lại ở hai đầu ti như hai giọt sương, to dần trĩu dần. Nàng đưa miệng con bé lại. Nó chụt chụt ngay lập tức, rồi ửa cổ ra ngay. Nhìn mặt con tái dại, nước mắt nàng lại ứa ra. Nàng lấy vạt áo, chặn ngực.
Không, nàng không khóc nữa. Nàng đặt con bé vào giữa giường, quây khít xung quanh bằng chăn, gối, áo rét và buông màn. Chưa yên tâm, nàng xếp bên ngoài một hàng gạch nữa. Nàng nhìn con, nghèn nghẹn - mẹ về bản, một tí mẹ ra, con ngoan nhé.
Nàng khép cái cửa tre lại rồi đứng ngây ra nhìn. Hình như còn thiếu cái gì… Nàng lại mở cửa, đây rồi cái hộp mì tôm hồi anh còn ở đây. Nàng xé toạc lấy một mảnh, viết nhanh bằng cục than - Cháu bé ở trong nhà, mẹ cháu vào bản một tí rồi về.
Nàng nhìn cái cửa tre có tấm biển chữ đen, rồi quay ngoắt, cắm đầu chạy.

May bố mẹ đều đi nương, chỉ có đứa em ở nhà.
- Sao chị phải ở ngoài hồ?
- Chị có con nhưng chưa cưới chồng.
- Thế cứ ở đây không được à?
- …
- Chị ở ngoài hồ nhỡ ngã chết đuối thì sao?
- …
Nàng cúi mặt, lảng chuyện bằng cách đi xuống bếp. Trên chốc chạn có một miếng bí, trong nồi còn một cái đầu cá, thùng gạo còn độ ba bữa… Nàng chần chừ rồi hai lần vục như thằng trộm. Nàng ra chào đứa em, chị về đây thì nó bảo chị đứng lại đã. Nàng giật mình…
- Chị lấy hết gạo trong thùng mà mang về.
- Thôi, chị chỉ lấy thế thôi. Bố biết em lại bị đòn.
- Em đảm bảo không ai biết chuyện này.
Nàng biết em thương mình. Mẹ thương mình. Bố… cũng thương mình. Nhưng nàng yêu thật nên mới có con. Anh ấy sẽ quay lại, đón hai mẹ con nàng về Thái Bình, làm đám cưới… Thái Bình nhà ở liền nhau, đồng lúa bên trên có sáo diều hát gọi, có con cò to bằng bắp đùi… anh vẫn kể thế.
Nàng chạy như bị con chó đuổi. Tưởng sắp đứt hơi thì về đến túp lều. Im lặng im lặng im lặng. Nàng vừa gọi con ơi con ơi vừa giật cửa lao vào.
Đứa bé không làm sao cả. Nó được bế lên, áp vào ngực mẹ, đang hục hặc tìm vú. Nàng bật ba cái cúc, đầu đứa bé và hai vú, xoay quanh nhau. Một lúc thì biết bị mẹ “lừa”, nó ngửa cổ ra khóc.
Áo dài, áo con đã rơi xuống đất để lại một miền trắng mát rượi. Đứa bé tự tìm được sữa. Nàng vui ngắm con, hai má nhịp nhàng tóp lại phồng lên, nghe cả tiếng ực. Sữa từ đâu ra? Sao lúc nãy không có? Nàng ngạc nhiên nhưng thích thú. Nàng xoa trán, xoa mông con, rồi vuốt vuốt vú mình. Khi nàng đã hiểu vì sao có sữa thì đứa bé lại ngửa miệng lên đầu ti mà khóc. Nàng không còn áo mà cởi, giá lớp da này cũng là một cái áo.
Lúc này thì tất cả quần áo tã lót của hai mẹ con đang nằm dưới đất. Nàng ngồi xuống, chầm chậm nhẹ nhẹ, đưa con từ đùi lên. Nàng nằm xuống lấy con làm “bàn tay” vuốt ve từ trên xuống. Một cảm giác khác, lâu lắm rồi nàng mới có. Nó làm cho nàng nhớ. Có gì như cuộn chảy, giật giật, như reo lên, kêu lên.
Nàng nằm im tận hưởng.
Nàng cong người, thấy mình giống cây chuối bóc bẹ trắng muốt. Nàng oằn oài lật trái lật phải, như nước trên nguồn về gặp phai, đầy ắp, sắp ục một tiếng.
Nàng đợi tích tắc vỡ òa.
Đứa bé bị mẹ “bỏ quên” được một bữa no. Trong mơ nàng thấy anh, nghe tiếng ực ực anh uống nàng. Xong cơn, nàng tỉnh, hai bầu vú vẫn căng níc, đứa bé đang quều quào bàn tay bé xíu lên đầu ti. Nàng đã tỉnh hẳn, rã rời, ngồi thừ ra hỏi mình mơ hay thật. Nàng bóp vú, tia sữa bắn mạnh vào mặt con. Nó cười khanh khách tưởng mẹ đùa. Nàng bóp vú nữa, sữa bắn như súng phun nước đồ chơi. Tiếng cười bằng lợi đỏ hỏn của con làm nàng quên hết. Tại sao nàng lại ra “phát minh” này nhỉ? Tại bất ngờ, tại nhớ anh, tại… chẳng biết làm sao lại như thế…
Nàng đặt con xuống, kệ tã lót tí nữa hẵng quấn, trời còn nóng mà. Nàng cúi xuống thơm con. Mỗi cái thơm có một tia nắng đậu đúng trán con - Nàng thôi, tia nắng cũng thôi. Nàng quay nhìn… ối giời ôi,  cánh cửa vẫn thông thống từ nãy đến giờ. Nàng giật mình rồi hết sợ ngay, nơi này chỉ có nàng giống ma mới ở. Những người làm công trình rút hết rồi. Con tôm con cá chưa có vì từ hôm đập làm xong chưa có trận mưa nào.
Nàng chưa mặc quần áo. Căn lều vẫn đang rung rung, gió nhè nhẹ vờn quanh khe liếp, nắng vàng óng nhảy nhót một tí lại ngoái về nàng. Nàng nhìn con, nhìn mình, thấy ngường ngượng, buồn cười thế nào ý…
Nàng đi nấu cơm. Lửa reo gọi một lúc thì nồi “cười”. Một đốm sôi ục ục ở giữa như từ dưới đất, dưới củi, đáy nồi… cứ thế dâng lên, trào ra. Mẹ hay bảo nồi sủi giữa là nhà có khách. Nàng chả bao giờ có khách, khách chỉ đến gia đình thôi, anh ấy chưa về thì chưa có gia đình. Chắc là người vui, nồi cũng vui theo thôi.  
Nàng ăn cơm trong nghèn nghẹn. Nàng nghĩ phải cố, cơm nóng, canh nóng sẽ có nhiều sữa. Nàng như con ngỗng vươn cổ mãi mà vẫn thừa cơm.

3

“Sữa mẹ” lên trang bìa 1 tạp chí ĐẸP. Những nan nứa nhòe, nắng thủy tinh, nổi bật đôi vú căng mọng hồng tươi, đôi mắt mẹ mãn nguyện xuống đôi mắt con ngây thơ. Tất cả sáng bừng lên, sức sống.  
- Đúng là được trời cho, chuyến này chắc Quang Hùng phải chục mâm chiêu đãi.
- Tuyệt thật. Ánh sáng, bố cục, nhân vật tươi mới… khổ quá tôi tìm một chỗ để chê mà không có.
- Đáng nể thật. Người mẫu này… ngoại giao giỏi cũng không dưới chục triệu một “nháy”. Cho xin địa chỉ đi.
Nhận lời khen từ đồng nghiệp, Hùng chỉ cười cười, trốn tránh.

Đến bây giờ Hùng vẫn nghĩ là mơ. Sao lại có túp lều như thế, sao lại thả vào thiên nhiên như thế…?
Hôm ấy, buổi sáng lễ kỷ niệm 70 năm thành lập tỉnh Y, buổi trưa là tiệc chiêu đãi. Đặc sản địa phương toàn tên lạ; gái đẹp địa phương cô nào cũng căng mọng, nói tiếng phổ thông ngọng nghịu mời rượu.
Hùng không thú với món này. Bài vở, lúc bế mạc đã chuyển một cái tin về tòa soạn, còn tư liệu đầy ắp máy ghi âm, máy ảnh sẽ thoải mái, kiểu gì cũng ok. Nhưng đấy chỉ là mặt tiền, kiểu vỗ tay hoan hô mà những thằng ăn lương phải làm.
Bỏ sau lưng ồn ào chúc tụng, Hùng ra, gọi một cái xe ôm.
- Ông đưa tôi đến một bản xa nhất, có gì lạ nhất.
- Xa thì anh phải ngủ lại.
- Không được, mai đoàn anh phải về sớm rồi.
- Thế thì lạ nhất mà đi về trong vòng buổi chiều được không?
- Được, anh về bản em.
Đến bờ hồ, cậu xe ôm bảo, anh đi theo lối này, cái lều em kể ở cuối bờ bên kia.
Hùng men theo hồ, nắng chang chang. Lòng hồ khô khốc, lổn nhổn gạch đá, vỏ bao xi măng… Thế mà cậu xe ôm nói đi nói lại, hồ bản em đẹp lắm, to lắm. Thôi, thông cảm, nó là công trình lớn, lại ngay sát nhà, tự hào phóng đại là đúng thôi, dân nông thôn đâu chả thế.
Hùng đã gần đến cái lều. Khoảng cách đủ thấy rõ - cột tre, vách nứa, mái broximăng, kiểu lán trại xây dựng. Nhìn trời, xung quanh, Hùng chỉnh lại các thông số máy ảnh, rồi bấm mấy kiểu toàn cảnh.
Anh là khách du lịch… nhà em ở đây à… anh lên không biết mua gì em cầm lấy gọi là quà thăm nhà… Hùng chuẩn bị sẵn những câu quen thuộc, tờ hai trăm nghìn khi đôi mắt đã chạm cửa lều.
Những tia nắng vàng vàng tím tím xoay xoáy vào lều. Chợt một luồng gió, những hạt bụi bị cuốn vào, làn nắng bỗng trở nên óng ánh như kim tuyến. Bên trong, không tin ở mắt mình nữa - một tiên nữ, một thiên thần đang phát sáng.
Hùng như mê sảng bấm máy, không nghe tiếng “tách”, không biết thời gian trôi. Tiên nữ cũng không biết một người đàn ông đang say ngắm mình. Làn da, đôi vú vẫn phát sáng. Cảm giác đứa trẻ lớn lên trông thấy sau mỗi nhịp môi bú mẹ.
Hùng đã rút lui lặng lẽ như lúc đến. Tình thế ấy, mà chào nhau một câu thì sẽ ra sao. Sẽ cứng đơ, thô thiển, chết rí như những vỏ bao xi măng dưới hồ kia. Thôi âu cũng là trời xui, trời cho.

4

Dạo này, nàng đi mót ngô, hái cà phê, đào móng nhà thuê… vo véo, tiết kiệm mẹ đủ ăn, nhưng con không đủ sữa. Nàng không hiểu, mình ăn rất khỏe mà tại sao sữa ít thế. Cái hồi mới ra hồ, nhiều ngày mẹ nhịn mà đứa bé chả mấy khi phải khóc.
Bao giờ cũng thế, nhọ mặt người là nàng cắm mặt chạy gằn về. Chân bịch bịch, tim thình thịch, tiếng khóc của con cứ văng vẳng văng vẳng.
Mồ hôi chỗ làm, mồ hôi dọc đường, theo nàng ướt rượt vào lều. Đứa con bập ngay vú, mồ hôi vào miệng nó trước. Khóc ré lên. Nàng lấy tay lau, rẽ mồ hôi ra, một lúc sữa mới vào. Nàng nhìn con nhịp nhàng ực ực, mệt nhọc tan biến.  
Một tuần liền mưa, nàng phải ở nhà nhìn mưa. Mưa to mà dai, từng sợi nước trắng trắng mờ mờ thẳng xuống, cả ngày không dứt lấy một phút. Nàng lên giường nằm, thấy ren rét, tiếng mưa vẫn đập, ồ ồ trên mái bro. Có gì như sờ sợ, nàng đặt con lên ngực. Lạ, nó không hục tìm vú như bình thường.
Dạo ấy, cũng căn lều này, cái giường này, nàng cũng ở trên ngực anh. Anh bảo, cái hồ này sau sẽ nhiều cá lắm. Nàng đã hỏi một câu “rất hay” (anh bảo thế), em là con cá gì? Anh không trả lời mà riết mạnh tấm thân tròn lẳn của nàng xuống. Nàng thấy mình sắp bẹp vào anh, ở trong anh.
Bây giờ thì nàng biết mình là con cá mắc cạn. Ví dụ như nó ở dưới hồ khô chết kia, ăn nắng, ăn vỏ bao xi măng… rồi biến thành đất đá.
Đứa con đã làm bung cúc áo, đang rứt rứt bầu vú; nó cắt xoẹt nghĩ ngợi vẩn vơ của nàng. Nó đang khóc, đập đập chân xuống bụng nàng. Nàng vỗ vỗ vào cái mông êm êm, nựng, con ngoan thì trời hết mưa, mẹ đi làm, sắp được lấy tiền rồi, mẹ mua hộp sữa… sữa nhiều như trời mưa… mưa đi… mưa đi…

Nàng thấy trong người rần rật, cảm giác quen quen lạ lạ đang bò bò trong thịt. Hình như là hôm ấy… mình làm ra sữa? Tiếng ực ực đều đều của con làm nàng nhớ. Nàng xoa con, xoa khắp người mình. Sữa ơi, sữa ơi… ở đâu về đi.
Suốt tuần mưa nàng mặc độc cái quần lót. Nàng nghĩ, như thế cũng là đi làm. Làm thuê lấy tiền mình ăn ra sữa cho con, làm… này, con cũng được nhiều sữa.
Sáng nay trở dậy, trời quang tinh. Nàng bước ra, nước mênh mông, xanh mát tận chân núi. Cái đập khô khốc hôm qua hôm kia, bây giờ đúng là hồ nước, biển nước. Gió thổi, sóng đánh oàm oạp, đuổi nhau đi, dắt nhau về. Nàng nhẹ bâng trên bờ đập, gió đi theo nàng, sóng từ xa cũng nhìn thấy nàng. Nàng đến chỗ nước tràn bờ. Những vỏ bao xi măng bị mắc lại, nước chảy oằn oằn. Nàng khựng lại… rồi lấy cây nứa đẩy một cái. Như chỉ chờ có thế, nước ào, sóng xô. Vèo vèo những bao xi măng đi. Cái trên cành, cái mắc gốc cây bên dưới.

5

Lún xe ôm nhìn chằm chằm nàng. Theo phản xạ nàng nhìn xuống ngực, ngoái đằng sau… kiểm tra mình. Không có gì. Từ ngày đi làm thuê, nàng cẩn thận, không bao giờ có sự cố quần áo.
- Sao em khác thế!
- Khác thế nào?
- Đen này, gầy này…
- … Xấu này…
- Anh không bảo là xấu nhưng… không giống người trong ảnh.        
Nàng cầm tờ báo, tờ báo rơi luôn xuống đất. Lún nhặt lên đưa lại.
- Đúng là em rồi, nhận đi.
- … Sao… em lại thế này?
- Anh biết đâu được… anh chỉ thấy, rồi mang về cho em.
Lún kể, hôm đấy có anh nhà báo… Hôm qua có người đi xe đánh rơi…
Nàng đứng lặng. Chăm chắm nhìn ảnh, như soi như tìm điều gì.
- Người đi xe đánh rơi trông thế nào?
- Nhìn đằng sau không biết. Chỉ thấy đội mũ, quần áo bảo hộ.
Tờ báo lại rơi. Nàng đi như mộng du về phía phố xa xa, Lún cũng lặng lẽ đi theo.
Độ chục ngày sau, nàng nhận được một cuộc điện thoại qua máy chủ nhà. Người đầu dây kia giới thiệu là nhà báo và hỏi anh Mạnh đã về với mẹ con em chưa. Nàng trả lời ngay là chưa, rồi mới hỏi lại làm sao anh biết. Anh xin lỗi và kể chuyện chụp ảnh trộm, tình cờ gặp Mạnh…
Bảy năm nay, nàng bỏ hẳn mót ngô, núi đồi nương rẫy. Nàng chỉ đi phụ vữa, dọn nhà, trông trẻ… tức là chỉ làm những việc ngoài phố. Con gái nàng đã biết nấu cơm, nấu cám lợn. Tối mịt nàng về, nó dọn cơm sẵn, líu ríu khoe đủ chuyện ở nhà. Nàng nhìn tấm ảnh gài trên vách, tự nhiên thấy bực vì nó lớn nhanh quá.

Điện Biên, 08 - 11/5/2015



Read More..

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

CHÙM THƠ PHÒNG CHỐNG MA TÚY



ĐÁM MA NGƯỜI CHẾT TRẺ

Chị như cái vỏ đỗ
Cong vênh nghiêng ngả nắng chiều
Tiếng khóc không còn ra nữa
Chỉ nhịp tim nấc lên

                  Đứa con trai hôm nay ra đồng bằng ảnh
Có một cơn gió đi đón
Làm tung bay vàng mã xuống ruộng
Nơi những chiếc kim tiêm cắm mặt xuống bùn
Như lũ bạn nó lêu vêu
Cúi đầu sau quan tài ân hận

Chàng trai di ảnh tóc vuốt keo như ca sỹ
Có nụ cười rất tươi
Vòng hoa trắng và khói hương trong nắng
Đường ra nghĩa địa toàn mây

Những tiếng thở dài tiếc thay
19 tuổi dính vòng nghiện ngập
22 tuổi trông như hài cốt
25 tuổi những ngày sống nốt…

Chập cheng chập cheng sâu hun hút
Sợ lắm cái tuổi mới lớn
Tùng tùng tùng tùng bầu trời tê tái
Một xóm làng khác đang đi

… Mộ chàng trai đã mấy mùa xanh
Xóm làng không thấy kim tiêm nữa
Chị bảo với tôi, chị hứa

- Không để đứa nào chết như con mình.


 Cái gương tối

Cúc quì đã vào hạt đen
Hoa ban quả treo lủng lẳng
Gió ề à lối mòn quen
Nắng bừng lên như hốt hoảng

Mấy mùa gió Lào khô khát
Có người vượt biên tìm mưa
Mấy lần có vài ba bánh
Mà đời lên… chả phải mơ

Người ấy mua cả ô tô
Xây cái nhà như nhà vua
Cô vợ đẹp như công chúa
Ai thiếu tiền nó khắc cho

Cơn gió thèm thuồng ngưỡng mộ
Nương ngô thành rừng cỏ gianh
Kẻ theo chân thú vượt núi
Người đứng đầu dốc lính canh?

Một ngày sét đánh về bản
Nó bị bắt dưới Quảng Ninh
Cô vợ hay nói công chúa
Cũng trùm ma túy… tử hình

                 Bản đau như bị lũ quét
Năm người nữa phải vào tù
Vật vã trong dòng nước mắt
Gió Lào năm ấy u u

Gió Lào năm nay lại thổi
“Ngôi nhà vua” đứng chơ vơ
Người già kể nỗi đau qua
Nhắc cháu con cái gương tối. 
TIỄN ANH ĐI TRẠI CAI NGHIỆN
                   

Trăng suông ngấm hơi men
Tắc kè, giun dế giục
Anh đứng lên chiếc cối đá
Chớp lóe một đường ra ngõ

Nhân cách có chảy máu?
Lương thiện có đủ điện?
Đêm đen thuốc liền dấu chăng?

Anh qua, vẫn tiếng hỏi chào
Đánh và tránh thật khó nhọc

Hôm anh đi trại cai nghiện
Mẹ anh khóc
Cả xóm rơm rớm nước mắt tiễn
Như kéo co
Với thân hình gầy guộc
Để chiến thắng sẽ là cả hai
Một tương lai hoàn thiện. 

Read More..

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Chùm thơ mới - Du An - VNQĐ tháng 4/2015



Với chuồn chuồn
  


Chiu chíu dọc ngang
ăn uống, hỏi han, tình tự
bầu trời chục mét vuông kiểm tra
ai không là chuồn chuồn?

Tao, thằng người mặc quần đùi
không mang nhựa mít
không có thuốc xịt
trâu sắm cho đàn muỗi đến làm quà

Chuồn quan che gió chuồn ngô
chuồn ớt sánh vai chuồn cống
lim rim chuồn kim bình yên
gió đồng vi vu nhạc sống

Nằm ngửa đệm cỏ may
tao bay bằng mắt nhé
bọn mày lộn chao đuổi bắt
rốn đây đứa nào cắn đi

Tao gọi trời cao
tao đứng lên, chúng mày đừng cao nữa
tao về với bạn bè tao
bảo chơi đẹp như chúng mày.




 


Nhà hộ sinh bàn phím

Lạch xạch lạch xạch
ì ạch ì ạch đêm đêm
một mình vượt cạn
nhà hộ sinh bàn phím

Tia chớp tháng năm thụ thai
ai đòi ai bắt
sung sướng khổ đau mãi
này khối u văn chương

Cơn co thắt rung màn hình
chữ khóc, chữ cười
chữ thường nhiều
chữ hoa ít
như dân, như sếp

delete lòng dao cắt
những đứa tính từ pê đê
dang tay mà cứu vớt
những đứa độc mộc

Con sinh ra nằm ổ cứng
sợ giống ông hàng xóm
sợ giống con chị thằng anh
mấy lần bế con đi
mấy năm rồi vẫn chẳng khai sinh

Lạch xạch ing ing
chữ chết lưu, chữ oa oa
đã mấy người tình đi tìm bồ khác
nhà văn đau không bao giờ lần chót.

 


Lúc 0 giờ

                Tặng các chiến sĩ biên phòng đánh án ma túy


Đồi gianh u u lốc quẩn
cái đuôi con rắn chìm sâu
tắc kè mê ngủ, rồi ngủ
hơi người hơi sương trong nhau

Rừng khuya vẫn tai lá mở
mi mắt lúc nào đóng băng
nòng súng như khe khẽ thở
rét ào những sợi dây văng

Tất cả cùng hoai mùi đất
tất cả tan trong rừng đêm
tích tắc chỉ còn giun dế
phút giây trời đất thật êm

Rập rình kìa những chiếc phao
lối mòn căng phựt đôi mắt
chân trời bất ngờ sát mặt
giọt sương lóe lóe sao sa

Tia chớp một hai sống chết
cuộc chiến với những bóng ma
máu và mồ hôi thành vệt
một đường trắng hê-rô-in

Bồng bềnh xuân đương bay lên
mây trắng và hoa ban trắng
bao nụ mầm từ những đêm
trưa nay ngời lên sắc thắm.



Read More..

Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015

GIANH THÔI, ĐỪNG GỌI CỎ

Tản văn của DU AN
Hồi bắt đầu biết gianh, tôi gọi nó là cỏ. Như ông bà bố mẹ vẫn thường gọi vậy. Cái loại chả biết làm gì, ăn tàn phá hoại; chặt đầu này mọc đầu khác; nương vừa phát đốt dọn xong chưa kịp trồng gì, anh em nó đã nhe nhởn, tua tủa mũi chông xanh.
Read More..